được sưu tầm bởi HXK

đây chỉ là những thông tin về những người mà tôi cho rằng họ giỏi, tôi khâm phục họ, tìm hiểu họ qua cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm cũng như tư tưởng của họ để lại trên thế gian này. cho những con người của thời đại họ sống và cho hậu thế.

Saturday, November 27, 2010

Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10

TP - Kim Ngọc- tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh 10 tháng 10 năm 1917, tại xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Mất ngày 26 tháng 5 năm 1979.

Tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam 1939. Năm 1954, Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc. Năm 1958, Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc. Từ năm 1968 đến 1978, Bí Thư tỉnh Vĩnh Phú. Kim Ngọc được coi là cha đẻ của khoán hộ mà người ta quen gọi là “khoán 10”, và đổi mới trong nông nghiệp ở Việt Nam.

1. Thời ăn bo bo

Năm 1980, rằm tháng Giêng, tôi, anh lính binh nhì viết văn phong trào của Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới - Sư đoàn 411, nằm khoèo nơi trạm khách dưới chân tháp cảnh giới của người Pháp sót lại trên đồi Ga Vĩnh Yên.

Những cơn đói quằn quại ẩn trong mỗi nơ ron thần kinh, mỗi tế bào tuổi 20 khát thèm tinh bột và protein, cấu xé rùng rùng từ đầu tới chân. Tiêu chuẩn lính chiến đấu 24 kg lương thực, nhưng bữa ăn đại táo bày ra trên chiếc vung xoong quân dụng chỉ là những cục bo bo rã rời hăng mùi cứt mọt (thứ mà ở Đông Âu người ta cũng không dám cho gia súc ăn) và rúm rau muống luộc ố vàng như gốc rạ.

Gió trung du đồi sỏi khan lạnh lùa qua kẽ nứa thưa đan, tôi ngắm cánh đồng chưa kịp cấy lúa lõng bõng nước, mấp mô luống cày. Đám nông phu còm cõi, uể oải níu vai chiếc bừa đeo bám đít trâu bò gầy mõ bương đi dật dờ trong cơn mê ngủ.

Sát hàng rào kẽm gai, vạt ruộng rau muống váng phèn ám đỏ như ngấm a-xít, lơ phơ màu hoa trắng tím. Bà già trùm áo tơi lá và đứa cháu trai áo sợi quân dụng, nhưng quần lửng đùi chừa ra đôi chân như ống tre còi. Bà và cháu khua liềm làm cỏ rau muống. Bà và cháu cùng mót những cọng rau muống trụi lá, cứng dai như tay tre gai đồi sỏi. Bà và cháu trịnh trọng bỏ từng cọng rau vào chiếc rổ thưa méo miệng…

Bỗng tôi nhận được lệnh tháp tùng hai sĩ quan: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển - Trưởng Ban tuyên huấn và trung tá Phạm Quế Dương- Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn ra bên ngoài doanh trại.

Cho đến bây giờ, tôi cũng chẳng hiểu tại sao hai sĩ quan trải qua hai cuộc kháng chiến đó, giỏi tiếng Pháp, thích ô-pê-ra, chơi vi-ô-lông, rèn luyện bóng bàn lại chiếu cố đến tôi. Quân phục mới nức, hai viên sĩ quan quân hàm quân hiệu sáng chói khoác va-rơi màu cỏ, bước nhanh ra khỏi tầng hầm trại lính cũ, nghiêm trang, trịnh trọng và trầm buồn. Tôi giập gót, giơ tay lên đầu, đáng lẽ nói: Chào các thủ trưởng ạ, thì tôi lại cháu chào hai bác ạ. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển cau mày.

- Cậu định làm nông dân đến bao giờ nữa đây. Gần quá tuổi quân rồi.

Trung tá Phạm Quế Dương mải nghĩ gì đó nhưng tâm vẫn dính vào vụ việc. Ông phẩy tay.

- Chậc, nước Việt ta thì có làm vua 13 đời thì cắt gân gót vẫn còn máu nông dân. Có lẽ tại chúng ta sắp đi thắp hương cho anh Kim Ngọc - một đảng viên của những đảng viên - một nông dân của những nông dân nên linh ứng chăng.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển nhìn cấp trên đắn đo.

- Có gọi xe không anh ? Tôi sợ anh sẽ lạnh…

- Đi thăm Kim Ngọc mà đi ô tô được sao. Kim Ngọc từng xắn quần lội ruộng lầy mùa đông thăm lúa, thăm ngô quanh năm. Ta cuốc bộ. Sĩ quan bộ đội Việt thì khác gì Chủ nhiệm HTX nông nghiệp.

Tắt qua đại đội vận tải đã là Xí nghiệp nung vôi liền kề ga Vĩnh Yên. Khói than. Bụi vôi. Bụi than. Bụi từ người lính, bụi người dân tứ xứ đứng, ngồi dồn ứ hai bên đường ke thành màn sương xám tê tái lơ lửng nhấn chìm mọi vật vào âm u.

Bộ đội quân phục nhàu nhò, súng đạn lấm lem. Nông dân thì vàng ệch, bao tải, quang sọt, đòn sóc, thừng chão quấn ngang lưng. Sắn tươi, sắn khô, su hào, bắp cải, cá mắm, măng khô, chè tươi, cắp nách, bưng bê, giấu giếm đâu đó. Mùi thối rữa. Mùi tanh ngắt.

Phòng thuế, công an thi thoảng lại thổi còi choe choé đuổi bắt. Tiếng chân chạy thục mạng. Hơi thở hồng hộc. Vấp, ngã. Xin xỏ. Van lạy. Thề thốt. Đầu tàu già cỗi, oằn oại kéo theo những toa hàng han rỉ…

Ngôi nhà lè tè nhưng vẫn có cảm giác chênh vênh bởi sự đơn độc của nó. Tường trát thiếu vôi, thiếu xi nổi cát. Ngói lợp khập khiễng, lệch xô. Đống sạn cát, gạch vỡ, ngói thủng được chủ nhân tận dụng để chờ xây dựng tiếp chỗ nào đó, xếp gọn gàng phía sau nhà. Xung quanh là nước đầm Vạc đục ngầu và nghĩa địa nhấp nhô.

Con chó gié từ đâu xộc ra oẳng lên rủa ngân nga, sầu muộn.

Hai vị sĩ quan chỉnh đốn quân phục, trước khi bước qua cánh cổng khép hờ. Ven bờ rào, căng dây thép gai rỉ, ngang thân cọc tre, dăm cây xoan, dăm cây mít mới độ bén đất ấm rễ. Hàng chè để hái lá tươi vươn cao, nhưng còn mảnh mướt lả ngọn. Vườn táo lai Thiện Phiến bắt đầu trổ búp mới.

Người đàn bà trắng xanh, tầm ngoại ngũ tuần, khăn len kẻ trùm đầu, kính râm, áo len dài tay màu mận, quần lụa đen óng, đôi dép nhựa xanh ngọc. Hai cánh tay đặt trước bụng, người đàn bà từ tốn cất giọng trầm, và ấm. Nhưng sao tôi vẫn cảm được sự xa cách, hờ hững thấp thoáng nỗi buồn không thể cởi gỡ. Bà Lê Thị Liên, người bạn đời của Bí thư Kim Ngọc.

- Các ông đến thăm nhà ạ. Xin mời các ông vào.

Tiếng dép lạch xạch lướt đi chầm chậm.

Bà đi ra từ cửa ngách, nhưng lại vòng ra trước rẻo sân lát gạch, xanh rêu, có cửa gian khách. Hai cánh cửa sơn xanh, khẽ một cái đẩy tay, hai cánh cửa sơn xanh đã lật úp vào hai bên tường. Mùi hương trầm ào ra. Một bàn thờ đơn sơ. Mâm ngũ quả. Bát hương, dày đặc chân nhang. Những que hương cháy hết uốn cong cong ôm lấy bát hương y như những bông lúa cháy đen ôm gốc rạ sau vụ hỏa hoạn.

Bức chân dung Kim Ngọc trịnh trọng trong bộ vest. Tóc rẽ ngôi lệch cổ điển. Khuôn mặt chữ điền, mắt sáng, hồn hậu. Đâu đó ẩn trong khoé miệng nụ cười hơi diễu cợt nhưng viên mãn.

Kim Ngọc đang chào một ai đó. Kim Ngọc đang khuyến khích một ai đó. Kim Ngọc đang chờ đợi một ai đó. Rõ ràng người trong ảnh đang rất tự tin và chẳng hề lo nghĩ bất cứ điều gì. Có vẻ như ông đã chụp ảnh trước khi đi dự hội nghị hay là chuẩn bị bước lên máy bay. Bay cao.

Tôi có cảm giác nghi ngờ về những thông tin ông xuất thân từ nông dân, am hiểu nông dân như là hiểu những vết sước trên mỗi ngón tay mình. Trông ông cứ như là cán bộ đối ngoại chuyên nghiệp.

Cởi áo khoác, hai sĩ quan nhìn quanh tìm chỗ treo áo. Tôi nhanh nhảu định đỡ áo, thì người đàn bà đã vội đón trước tôi, móc lên chiếc móc áo gắn trên tường ngoài hiên. Tôi nghĩ thầm, đó là chiếc móc áo những ngày trước bà Lê Thị Liên vẫn thường treo móc áo cho chồng. Trung tá Phạm Quế Dương nói:

- Thưa chị Kim Ngọc. Tôi quen anh nhà. Từ hồi anh làm Cục trưởng dân quân tự vệ. Còn anh Chiển vốn là chiến sĩ cũ của anh ấy. Năm ngoái anh mất, tôi ở xa. Hôm nay nhân ngày rằm, và cũng là dịp tôi được điều về nhận nhiệm vụ ở gần đây, hai chúng tôi xin chị, cho phép chúng tôi được thắp cho anh Kim Ngọc nén hương. Những mong linh hồn anh phù hộ độ trì cho đất nước. Phù hộ độ trì cho người nông dân cơm no ấm áo. Mong anh siêu thoát.

Đặt đồ cúng lên mặt bàn thờ đơn sơ. Hai viên sĩ quan dàn ngang, rập gót giơ tay chào kiểu quân sự. Tôi đứng sau nên lúng túng giây lát mới có thể lóng ngóng làm theo. Bà Lê Thị Liên bất ngờ ngẹn ngào, chắp tay đáp lễ.

Tôi lặng quan sát. Nhiều ảnh đen trắng trong khung kính. Mấy tấm bằng khen, giấy khen, huân, huy chương. Gắn dọc hai bên bức tường lồi lõm, của gian khách chật hẹp. Trong nhà chỉ có bộ bàn ghế kiểu Minh triện, đơn giản, trang nhã làm bằng gỗ gụ là trau chuốt. Nước vối nóng hổi rót liền trong ấm giỏ. Đĩa kẹo chanh Hải Châu đã lọt gió, thuốc lá Tam Đảo trịnh trọng mời khách. Bà Liên nhìn sang tôi:

- Gày xanh như thế này thì đi giữ chốt làm sao. Ăn đi con…Tuổi này thì bữa cứ phải bảy bát cơm trắng, niêu cá kho, nửa rổ xề rau muống thì khoẻ như ông voi hết…

Hai thủ trưởng của tôi lảng cái nhìn đi đâu đó.

Câu chuyện rời rạc, khó ăn nhập. Toàn chuyện gạo, lúa, bo bo, thời tiết, sức khoẻ họ hàng đôi bên. Họ cứ muốn nói to một điều ấm ức nào đấy mà không tiện. Không thể kết thúc ngay câu chuyện. Nhưng để kéo dài câu chuyện thì lại không biết bám víu vào đâu.

Trong ánh mắt ba người từng trải qua hai cuộc chiến gần suốt cuộc đời, tôi thấy bao nhiêu là sự ngậm ngùi, cam chịu mà sẻ chia thông cảm. Họ vẫn còn giữ được niềm tin vững chắc vào những chân lý thuộc về lẽ công bằng. Tin vào sự thiêng gọi là tình đồng chí.

Người đàn bà nhìn lên di ảnh chồng, tĩnh lặng.

- Ông nhà cháu đã bảo với tôi rằng, ông như cây lúa trổ bông cho hạt rồi. Chỉ còn rạ với rơm. Rạ thì cày ải úp xuống cho đất ruộng thêm tơi nhuần. Rơm thì phơi khô dự trữ cho trâu bò tăng sức cày kéo mùa vụ.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển ái ngại.

- Vĩnh Yên còn mênh mông ruộng đất. Sao anh chị không chọn điểm nào bằng phẳng, gần đường, gần chợ sinh hoạt cho tiện sinh hoạt. Đây tuy cao, nhưng là chỗ lò chum vại cũ, xung quanh hãy còn mồ mả, lối vào lầy thụt…Già cả rồi mà anh chị lại chọn chỗ chông gai để ở…

Bà Lê Thị Liên cười hồn hậu.

- Ông Kim Ngọc bảo ruộng đất rồi sẽ quí lắm. Không phải vô cớ ông cha nói tấc đất tấc vàng. Nếu thích lấy chỗ bằng phẳng đông vui thì phải xén vào ruộng đất canh tác. Ông ấy thích có vườn rộng. Mơ sẽ có một vườn táo sum suê. Muốn tự mình thực hiện khoán quản cho mình ngay trên mảnh đất mình khai hoang vỡ rậm…

Dường như hồn Kim Ngọc đã trở về. Nụ cười bỗng rạng trên gương mặt héo khô của cô sơn nữ xứ Tuyên thuở nào. Hào hứng bà bước ra hiên chỉ tay ra mấy phía vườn.

- Trước khi về hưu, ông Kim Ngọc đã nhờ mấy chú bên Xí nghiệp cơ khí Vĩnh Yên rèn nào cuốc bàn, cuốc chim, nào xẻng. Mấy ông già Sán Dìu bạn thân thuở tá điền trong Thanh Lanh mang cho mấy khúc tre đực làm cán.

Tôi và ông ấy, tự khoán mỗi ngày cuốc 4 mét vuông vườn, nhặt sạch sỏi đá, mảnh sành, mảnh vại. Đứa cháu gái con thằng cả cũng theo ông bà ra vườn. Cháu nhỏ nhưng cũng biết gom nhặt mảnh sành, mảnh vại giúp ông giúp bà. Chẳng may, tay cháu bị cứa đứt, máu chảy tóa ngón tay. Cháu cứ giơ lên trời kêu khóc sợ hãi.

Ông Kim Ngọc nhà tôi lấy vạt áo lau sơ qua bùn đất trên ngón tay cháu rồi đưa vào miệng ngậm một lúc rồi mới băng bó. Lúc sau cháu gái hỏi tại sao ông lại ngậm ngón tay đầy những máu. Ông cháu bảo rằng: Cháu là máu thịt của ông bà. Máu của cháu cũng là máu của ông bà. Tay chảy máu ngậm vào miệng mãi cũng hết chảy cháu ạ…

Gió thổi bùng mái tóc pha sương thoát khỏi vành khăn len, xoà kín mặt người đàn bà. Hình như trong khóe mắt bà có nước mắt, nhưng trên môi bà sao tôi lại thấy nụ cười rạng niềm tin.

Câu chuyện tôi nghe bập bõm ngày xưa về khoán trong nông nghiệp và số phận người đảng viên Kim Ngọc, khai sinh ra nó là đề tài lúc rầm rì lúc công khai có ở mỗi tổ đội sản xuất, ở mỗi quán nước chè, quán cà-phê trong suốt mấy chục năm, suốt từ Móng Cái đến mũi Cà Mau.

Và, cho đến thời điểm này, khi người nông dân toàn quốc, đã thừa lúa gạo xuất khẩu, họ dù không biết chữ, hay nghễng ngãng điếc lác còn biết Kim Ngọc là ai, thì dường như vẫn chưa có hồi kết câu chuyện về ông. Người ta đang hồi cố về Kim Ngọc với bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn.

Người ruột thịt xung quanh tôi phần đông là nông dân. Nên ít nhiều tôi thấm hiểu thế nào là sự biết ơn của họ với nhà cải cách Kim Ngọc. Và, chính tự thân tôi cũng muốn một lần chính thức cảm ơn ông, với tư cách là một con người với một con người.

Ông đã làm vợi bớt đi bao nhiêu là gánh nặng trách nhiệm lo toan bất lực của tôi với người thân ở làng ở xóm, vì thóc nghĩa vụ vì chỉ tiêu lợn hơi. Và, những người thân cuả tôi ở xóm ở làng cũng không còn thắc thỏm thương các con cháu ở thành phố ăn gạo hẩm, ăn sắn khô mốc.

Ở mỗi bến tàu bến xe không còn cảnh bà mẹ nông dân còng lưng van xin quản lý thị trường khi mang theo một vài cân chè khô. Những chuyện thật mà ngỡ như không có. Không ngờ phải mất khoảng thời gian tính cho một thế hệ trưởng thành, tôi mới có lý do để trở lại ngôi nhà mà nhà cải cách nông nghiệp Kim Ngọc đã sống mấy tháng cuối đời.

Tham vọng lý giải hiện tượng Kim Ngọc với vô số câu hỏi và nhiệm vụ tự đặt ra, tôi những mong điều đó khiến mình yên lòng. Và, phần nào giúp bạn đọc phác họa chân dung một ngưỡi Cộng sản, dám xác quyết hy sinh sinh mạng chính trị đang thăng tiến vì bát cơm của mỗi người nông dân.

Một người dám nói ngược chân lý chính thống nuôi dưỡng ý chí thích công to, việc lớn và lòng tự hào của cả một quốc gia đang nồng nàn, phăng phăng cuộn chảy, phấn đấu cho thế giới đại đồng.

2. Mối tình đầu của cô sơn nữ

Với cô sơn nữ Lê Thị Liên sinh năm 1921 ở làng Sơn Nam ven sông Lô của huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang thì buổi chiều mùa xuân năm 1943 là buổi chiều định mệnh. Người thiếu nữ, tóc dài da trắng, tính tình bộc trực, thẳng thắn con gái út của hào phú yêu nước Lê Khắc Cần từ ngoài bãi dâu ven sông Lô về nhà, treo cái cuốc lên đầu hồi tường bếp vừa buông quần, bỗng lúng túng.

Một người trai lạ đang đứng trước sân.

Người trai tầm thước, tóc ngắn, vẻ ưu tư, khắc khổ, quần áo nâu sờn mòn, đôi bàn chân trần nứt nẻ, choãi ngón bám chặt lấy mặt sân, tay khoanh trước ngực. Chiếc túi vải chàm đeo chéo hông. Đôi mắt sáng trầm. Anh ta khẽ gật đầu chào. Phong thái đàng hoàng tự chủ, cứ y như anh ta mới là chủ nhà, còn cô là khách. Người con trai ấy chính là Kim Ngọc.

Anh được Việt Minh phân công về vùng Sơn Nam, tổ chức và huấn luyện chính trị và quân sự cho lực lượng cách mạng ở đây. Cô không dám đáp lễ mà chạy ngay vào bếp hỏi mẹ.

- Bầm ơi. Hình như lại có cán bộ Việt Minh đến ở nhà mình.

- Anh Nguộc sẽ ở nhà ta lâu lâu. Con nhớ cơm nước chu đáo. Việc gì cần hỏi thì hãy hỏi, không tò mò. Người lạ thắc mắc thì bảo anh họ ở dưới quê lên tậu trâu chọi…

Vừa lúc ấy, người thanh niên ngó vào khuôn cửa bếp chập chờn ánh lửa, lễ phép.

-Thưa bá, bá cho cháu mượn con dao rựa.

Người thanh niên lặng đến gốc mít cuối vườn, dựng đống củi cảnh, xắn tay làm việc. Củi dài thì anh chặt ngắn. Củi to thì anh chẻ ba, chẻ tư. Đống củi được xếp lại chẳng mấy chốc đã cao ngang thắt lưng. Cả hai mẹ con cô, bỗng như bị thôi miên vì sự thuần thục công việc nhà nông của người thanh niên có tên Nguộc.

Từ bữa đấy, hôm nào không bận đi tuyên truyền, vận động, giác ngộ bà con quanh xóm Sơn Nam tham gia Việt Minh, anh Nguộc lại theo chân cô Liên ra cánh bãi làm cỏ hái dâu. Vốn con nhà khá giả, cô Liên tham gia việc đồng áng như một sự tuỳ hứng thích thì làm, không thích thì chơi.

Cô không quá chú tâm đến việc phải làm cỏ như thế nào, hái dâu như thế nào. Hái dâu cô vít cả ngọn dâu mà tuốt trơ trụi cả lá bánh tẻ lẫn búp non. Cô chạy ngang dọc bãi dâu, bắt cào cào châu chấu. Lá dâu tươi nhựa vương vãi kín lối đi.

Còn anh Nguộc giỏ sau lưng đầy lèn chặt tay, thì giỏ trước ngực cũng tới miệng. Dõi theo Liên chạy nhảy, Nguộc chau mày vẫy vẫy tay.

- Cô Liên lại đây tôi bảo tí.

- Có gì mà bảo tí mới lại bảo nhiều. Anh không thấy em đang bận đây à ?

- Bận cũng bỏ đấy.- Nguộc đã hơi sẵng giọng.- Cô không thể làm ăn tắc trách, cẩu thả như thế này được…

Mồ hôi mướt tóc mai, Liên hớt hơ chạy đến.

- Đây cô mở to mắt mà xem. Cô hái dâu mà như bóp cổ cây dâu thế này thì làm sao nó sống được. Làm sao có đủ lá dâu cho tằm lứa sau đây. Tằm mà chết thì có khác gì cô đốt nhà mình không ? Trông đây này, người ta phải nắm phần thân cứng, ngắt từng chiếc lá bánh tẻ một, hiểu không ?

Liên ngỡ ngàng, nhưng vì ngượng nên cố cãi cùn:

- Ơ hay, cái nhà anh Nguộc này, đây là dâu nhà em, thì em muốn hái thế nào mà chẳng được. Ai khiến anh…

Nguộc nổi nóng, giậm chân.

- Phải, cô không khiến tôi. Tôi tự khiến tôi đấy. Nhưng đã là người nông dân làm ruộng chăn tằm thì phải biết thương biết xót con giống cây của chứ. Như thế thì mới hòng có miếng mà ăn chứ. Cô không biết là bố mẹ, anh em nhà cô đã vất vả bao nhiêu mới dư chút ít đồng tiền bát gạo đóng góp cho Việt Minh không. Của riêng mà cô thịa thế này, thì mai mốt cô làm ăn chung thì sẽ ra sao đây?

Dỗi anh Nguộc, Liên bỏ ra bờ sông Lô nghịch cát. Nhìn theo cô gái, thở dài, Nguộc cúi xuống nhặt hết những lá dâu rơi vãi vào sọt của mình. Ra vẻ thế, nhưng Lê Thị Liên đã thầm cảm mến người cán bộ Việt Minh, giỏi việc huấn luyện quân sự, giảng dạy chính thông thạo, sành sỏi việc nhà nông từ lúc nào không hay.

Mùa kén ươm tơ vàng năm ấy, cô đã khâu bộ quần áo đũi và mua một đôi dép cao-su trắng tặng anh. Còn anh, chép lại những bài học chính trị trên những trang giấy trắng trong vở ghi của cô đầy đủ hơn. Biết cô ưa hình thức, anh Nguộc đã lựa khẩu súng mới nhất dành cho cô luyện tập.

Nương dâu bãi bồi ven sông Lô vào mùa cắm hom mới. Nguộc và Liên tranh thủ cuốc đất đêm trăng, bởi việc rèn luyện chiến thuật quân sự và học tập đã chật kín thời gian ban ngày. Nhưng hồi chiều, anh Nguộc nói nhỏ với cô, rằng, đêm nay có chuyện quan trọng muốn tâm sự. Nhưng trăng đã chếch đầu núi xa, mà anh Nguộc vẫn hì hụi cuốc, không đả động đến chuyện quan trọng kia.

Nhìn mồ hôi thẫm đen, ngực áo, cô linh cảm anh đang có điều khổ tâm, vướng bận. Đã mấy lần anh chống cuốc, ấp ứ định nói. Liên phải ý tứ nhắc khéo.

- Anh Nguộc, anh xem trăng đã gác núi kia kìa.

Người thanh niên bỗng run lên, bổ một nhát cuốc phập xuống lút cán. Xoa hai bàn tay lấm bụi phù sa mờ mờ bốc lên như khói trong ánh trăng.

- Tôi muốn hỏi đồng chí làm vợ. Đồng chí…Liên…Liên thấy thế nào?

Bên tai dường như vẫn còn vang tiếng mẹ cô, nhắc khéo, mươi hôm trước.

- Bầm thấy anh Nguộc là muốn thương yêu con thực lòng. Mà con thì chắc cũng mến nó rồi. Con gái mà lấy nhầm chồng thì …cuộc đời... Nhưng con lựa khéo mà hỏi han gia cảnh nhà người ta xem. Bầm nghe đâu, ở dưới quê anh Nguộc đã có vợ. Nhưng chị ta phản đối anh Nguộc đi theo Việt Minh. Con liệu bề mà dò nguồn suối lạch sông xem thế nào…

Người thiếu nữ miền sơn cước ngõ ngàng. Người thanh niên Việt Minh dập dồn nói trong hơi thở.

- Thú thực, là tôi cũng đã một lần cưới hỏi, nhưng người ta không thể cùng tôi trên con đường tôi đang đi. Nhà người ta đã trả lại lễ chạm hỏi cho nhà tôi rồi. Nhà tôi nghèo, không có bao lăm ruộng đất. Năm anh em trai đều xa làng từ nhỏ làm tá điền khắp các cửa nhà giàu.

Tôi sinh ra là để cho đất đai. Tôi yêu đất đai hơn bao giờ, tôi mê trồng lúa, trồng cây. Tôi đi theo Việt Minh là để kiếm mảnh đất cho mình. Khẩu hiệu của Việt Minh là người cày có ruộng. Mai này đất nước thoát khỏi ách Nhật- Tây, tôi sẽ về trang Sơn Nam ở rể cày ruộng chăn tằm cùng Liên…

Cô hỏi anh về cái họ Kim lạ lùng, thì anh tần ngần cho hay. Họ Kim nhà anh chính là họ Lê. Anh là con cháu nhóm những người trung thành với nhà Lê phản đối Tây Sơn nên đã phải rời kinh thành, mai danh ẩn tích…Lê Thị Liên ngỡ ngàng, thì ra anh Nguộc là người cùng họ. Nhưng họ Lê nhà cô thì lại từ vùng Lập Thạch chuyển cư lên Sơn Nam.

Lê Thị Liên học xong lớp quân chính 3 tháng do đồng chí Song Hào giảng dạy và phụ trách vừa lúc Cách mạng tháng 8 thành công. Trong niềm vui chung, Kim Ngọc và Lê Thị Liên đính hôn. Lễ cưới ở Tân Trào, chủ hôn là đồng chí Hoàng Quốc Việt. Gia đình nhà vợ giết bò, mổ lợn khao cả trang Sơn Nam vì cưới được rể hiền là cán bộ Việt Minh.

Kim Ngọc ở nhà vợ chừng vài tháng, nhưng do công tác đòi hỏi thi thoảng mới đập đểnh đáo qua nhà vợ được mươi tối. Người vợ trẻ Lê Thị Liên cũng bị cuốn theo vào công tác đoàn thể. Vợ chồng mới cưới, nhưng hóa ra vẫn không thể sống chung một nhà. Thi thoảng hai vợ chồng gặp nhau ở đâu đó trên đường công tác. Nhưng cả hai cũng chỉ biết nhìn ngắm nhau suông. Ngủ nhà cơ sở, mỗi người ở mỗi giường.

Thấy con dâu muộn cháu, mẹ chồng đã toan bắt Kim Ngọc lấy vợ khác để có người nối dõi tông đường. Chuyện đó rồi cũng đến tai tổ chức, từ đó bà Liên được bố trí bên cạnh Kim Ngọc vui cùng cái vui, buồn cùng cái buồn để giúp đỡ và chăm sóc người bạn đời, người đồng chí cho đến tận giây phút ông hấp hối trên giường bệnh.

Năm 1947 đứa con trai đầu lòng của họ chào đời trong kháng chiến, tên là Kim Sơn, người con trai thứ là Kim Nam. Tên hai người con trai, mang tên làng Sơn Nam, nơi chứng kiến tình yêu, và tình đồng chí gắn kết hai con người chung vào một số phận đặc biệt.

Từ một cô gái con phú nông giàu có, không phải lo toan miếng cơm manh áo, bây giờ lấy Kim Ngọc, bà Lê Thi Liên bỗng nhiên phải lo toan chăm nuôi các con, kề vai bên người chồng đau yếu luôn luôn. Vậy mà bà đã vượt qua bao nhiêu cam go thử thách không lời ấy, để làm tròn bổn phận, người vợ thủy chung, người đồng chí tận tụy của Kim Ngọc. Đặng để ông không bận lòng, dồn toàn tâm huyết lo việc nước…

Những cây mít, hàng chè lơ thơ cọng tăm ngày xưa. Mít đã sắp thành cây cổ thụ. Hàng chè tươi hái lá đã lực lưỡng vươn cao. Khu đồi hoang phế đã có hàng rào gạch xây quanh.

Vóc dáng khiêm tốn một trang trại trong lòng thành phố Vĩnh Yên.

3. “Ôi, nỗi đau đồng chí...”

Từng ấy năm, tôi đã qua lại phố thị Vĩnh Yên từ thị xã tróc lở lên thành phố Vĩnh Yên náo nức không đếm được lượt. Con đường có vòng vèo thì cũng mười phút xe máy, vậy mà tôi đã không có được nghĩa cử như là hai người thủ trưởng cũ, như là bao nhiêu con người từ nông dân đồng bằng Nam Bộ đến lãnh đạo đất nước, ghé vào ngôi nhà tuềnh toàng thắp lên chút ít tri ơn trong khói hương trầm.

Bà Lê Thị Liên có thể không nhớ tôi là chú lính đói ăn vào ngày xuân năm ấy đã nhận từ bà mấy chiếc kẹo chanh Hải Châu lọt gió thấm đường qua lớp giấy dầu dấp dính lòng tay.

Điềm tĩnh và cả sự chuyển động chậm của tuổi già, bà mời tôi vào nhà. Dường như việc tiếp khách ngày ngày đến thắp hương và ngắm nhìn chân dung Kim Ngọc là việc bình thường với bà. Dù tôi có là ai thì bà cũng không cảm thấy xa lạ.

Nhưng lạ kỳ, bà vẫn nhớ tôi. Bà bảo rằng, bà quên nhiều thứ, nhưng nhiều thứ bà không thể quên. Nhất là hôm ấy là ngày rằm tháng Giêng. Cỏ hãy còn chưa xanh kín mộ Kim Ngọc trên đồi đá ong. Cậu giờ béo tốt rồi, tóc cũng điểm sương hai bên thái dương rồi…

Phòng khách hẹp và dài. Vẫn chiếc ấm giỏ cũ, vẫn bộ ghế kiểu cổ bốn chiếc, bàn vuông mặt đá. Bộ xa-lông giả da được kê thêm gia tăng chỗ ngồi. Bàn thờ Kim Ngọc sơ sài ngày xưa thì đã có tủ thờ. Bức tượng bán thân, đúc đồng, quà tặng của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc nhân 90 năm ngày sinh Kim Ngọc đặt đằng sau bát hương.

Thần thái bức tượng, ung dung, trầm mặc. Hai bên vai tượng tàn hương trắng xám. Trên tường những bằng khen, huân huy chương, những bức ảnh đen trắng đã tháo dỡ mang đi đâu đó. Lỗ chỗ dấu đinh đó đây trên tường vôi xanh ẩm.

Thấy tôi ngẩn ngơ, bà Lê Thị Liên thở dài.

- Tôi cũng không muốn thay đổi làm gì. Nhưng cái nhà này ngày xưa mua thanh lý Nhà nước bán cho thời bao cấp rệu rã ụp lúc nào không hay. Cây cầu Cần Thơ vững thế mà còn đổ kia mà. Huống hồ nhà đã 30 năm, xây lúc khủng hoảng kinh tế. Mấy hôm nữa sẽ tháo dỡ một phần nhà, nhưng tôi sẽ xây lại nguyên mẫu. Nó sẽ cứng chắc, bền vững để có chỗ thắp hương lâu dài cho ông ấy.

Bà nhấc ấm giỏ rót cốc nước chè xanh, vàng óng màu mật ong.

- Anh uống nước đi. Đây là chè xanh được ông Kim Ngọc trồng từ ngày mới về đây khai phá. Con đường hoa sữa ngoài kia, là cả nhà tôi, các con các cháu phải dốc sức từng tháng, từng năm, mua góp xe trâu, xe công nông đất đá đắp nên lối đi qua lòng ao cũ. Anh có biết vì sao không?

Chẳng là lúc ông nhà tôi còn sống, ông đứng trên sân nhà nhìn lối vào lầy thụt mà ước ao. Sau này nhất định sẽ phải có một con đường thẳng với hàng cây trồng hai bên…

Khu ao thả cá phía cuối vườn cũng vậy. Đó là ý nguyện chưa thành của ông Kim Ngọc. Các con tôi đã tích cóp xây dựng nên. Hy vọng ít nhiều làm mát mẻ linh hồn cha.

Dù không muốn làm bà đau, nhưng tôi không thể không hỏi một câu mà bao nhiêu người đã muốn hỏi bà, nhưng vì lý do nào đó đã không được may mắn như tôi. Vả lại, nếu hôm nay, tôi không hỏi bà thì sẽ chẳng bao giờ có cơ hội.

- Thưa... bác còn nhớ, hôm báo ND đăng bài phê bình khoán hộ của Kim Ngọc. Rồi thì Tỉnh ủy Vĩnh Phú họp gần một tuần để kiểm điểm ông cháu không ạ?

Bà Lê Thị Liên bặm môi, nuốt nước bọt, ái ngại lẫn tự hào nhìn lên bức chân dung đúc đồng của chồng. Mãi một lúc lâu bà mới cười cười.

- Anh hỏi lạ - Bà Liên chỉ tay vào nơi lồng ngực - Nó nằm ở sâu mãi trong này. Đầu tôi có thể quên, nhưng trái tim tôi thì vẫn nhớ…Hôm ấy không khí nặng trĩu, tù đọng. Ông Kim Ngọc trở về nhà ngồi co cả hai chân lên mặt ghế im im giữa nhà không bật điện, ống quần kéo cao quá gối.

Tiếng nõ điếu khoét từ gốc cây sim trên núi Tam Đảo mà người bạn già người Sán Dìu tặng ông ấy, trước khi cả nhà lên Việt Trì, mười lăm hai mươi phút lại rít lên đon đót khoan xoáy vào màng nhĩ. Tôi bảo, ông ơi mời ông xuống bếp ăn cơm. Cơm xếp lâu rồi. Các con đang đợi ông.

Ông ấy chỉ phẩy tay ra hiệu cho tôi đi ra. Ngồi thu lu đến gà gáy lần thứ 4, ông mới ngả lưng một chút. Đài chưa nổi nhạc thể dục đã lại lục ục thuốc lào. Sáng sớm, tôi nhìn khắp gian nhà bã thuốc lào chi chít như ốc sên mới nở. Bó đóm tre ngâm, chặt một tay nén mà không còn một thanh nguyên.

Cả ngày hôm sau, cũng lại kiểm điểm tiếp tục trên hội trường. Bữa trưa ông bỏ cơm hội nghị, về nhà nằm khan. Gần một tuần, ông ấy chỉ uống nước, ăn mấy chiếc bánh bích quy, hút thuốc lào. Những hôm ấy, có đêm ông xuống chuồng lợn cạnh bếp, nấu cám cho lợn ăn.

Chả là, tuy ở tập thể, nhưng hồi đó, nhà tôi vẫn thích chăn nuôi, tăng gia thêm để có chút cải thiện. Con đông mà ông ấy lại không bao giờ nhận biếu xén, hay đề xuất mua thêm, mua nếm gì ngoài những thứ Văn phòng Tỉnh ủy phân cho.

- Sao hở bà, ông Kim Ngọc nấu cám nuôi lợn tăng gia cải thiện cho gia đình?

- Đời nào lại bắt ông ấy làm thế! Tôi xuống bếp xua ông ấy và bảo. Thôi, ông có ngẫm có nghĩ thì lên nhà, ai lại ngồi đun cám thế này, quân tử phải giữ mình chứ.

Gạt than hồng giữa lòng bếp, thả thêm củi khô, ông ấy làm như không có tôi bên cạnh mà chỉ lẩm bẩm: Ôi, nỗi đau đồng chí... Đó là câu nói duy nhất mà tôi nghe được từ miệng ông ấy than van về sự kiện đó…

Bỗng có tiếng nồi chậu xô nhau trong bếp loàng thoàng. Bà Liên vội đứng dậy chậm chạp lần xuống gian bếp, tôi bám theo bà. Hóa ra chỉ có con mèo lục ăn làm đổ mâm bát, trúng chiếc chậu giặt. Mắt tôi bị hút ngay vào chiếc chậu giặt sáng lóa, to lạ lùng, người lớn có thể ngồi gọn lỏn bên trong.

Bà Liên dọn lại mâm bát, đặt chiếc chậu ngay ngắn, cười tươi.

- Đấy, tài sản vật chất ông Kim Ngọc nhà tôi sắm được ngoài một lô lốc những huân huy chương, bằng khen giấy khen thì có mỗi cái chậu này làm đồ dùng cho gia đình. Bao nhiêu lần tôi muốn xin phiếu định mua chiếc chậu nhôm Liên Xô nhưng ông ấy cứ gạt đi, bảo đã mua rồi, nhưng chưa tiện mang về.

Thì ra ông ấy xin được đoạn ống thùng xăng phụ của máy bay Mỹ ném bỏ, mang vào chân núi, nhờ ông bạn người Sán Dìu giỏi nghề rèn, gò chia đôi, mỗi người được một cái chậu. Nó được hơn ba mươi năm rồi mà vẫn cứng cáp, các cháu tôi mùa hè nào cũng tranh nhau tắm trong chậu của ông…

Bà Liên ngồi luôn xuống thềm, chỉ mông lung ra vườn.

- Ngoài kia còn cây vú sữa, ông Kim Ngọc xin cây con mọc ở dưới tán cây vú sữa nhà Bác Hồ. Giờ cũng sắp thành cổ thụ. Đã hơn ba mươi năm có lẻ ông Kim Ngọc nhà tôi nằm xuống…Giàn nhót trụ được mươi năm rồi thì cũng lụi tàn…

Hồi tưởng lại quá khứ, có thể lúc đầu là chỉ để tâm sự với tôi, nhưng sau đó là chuỗi tự sự độc thoại của bà Liên về những ngày cuối cùng chồng bà nằm ở Bệnh viện Việt Xô. Ông bệnh dạ dày đã mổ hai lần, giờ lại bị tắc đường phân. Mổ cho ông những lần trước là giáo sư Tôn Thất Tùng, nhưng lần thứ ba này giáo sư Tôn Thất Tùng đang công tác ở Pháp, người mổ thay là giáo sư Tôn Thất Lang. Ông Đặng Hữu Khiêm, phó ban Tổ chức T.Ư Đảng, vừa là bạn vừa là cấp trên, nắn nắn những ngón tay khô gầy của bạn, hỏi.

- Anh thấy thế nào? Có sợ không ?

Kim Ngọc cười khô héo.

- Sợ làm sao được. Chuyên môn bảo mổ thì cứ mổ thôi.

Tôi cầm bàn tay chồng mà ruột gan cứ thắt lại vì một linh cảm nặng trĩu lồng ngực. Mắt khép hờ, vẻ mặt bình thản hơn, hơi thở đều đặn. Nghẹn ngào, tôi cúi xuống khẽ hỏi.

- Ông ơi, ông có…có muốn nói gì với tôi và các con cháu không... thì ông nói đi…

Nhưng ông nhà tôi cứ nín lặng thiêm thiếp, bình an, trắng toát nằm trên giường đẩy, đang được các thầy thuốc đưa theo hành lang hun hút tiến vào phòng mổ. Tôi cố giữ bàn tay ông ấy trong tay mình thêm một giây lát.

Trước đó mấy hôm, ông ấy còn nháy ông Lê Dân lén kiếm cọng đu đủ nhét trong vạt áo ngực mồi thuốc lào, hút lén bác sỹ. Mùi thuốc lào nồng lên, tôi định cự nự thì ông ấy hít hà khoan khoái: “Ôi khoái quá, sướng quá đi mất chú Dân ạ. Mai lại nhớ mang cọng đu đủ vào nhé!”.

Thế mà lúc này Lê Dân và Đặng Hữu Khiêm đang thì thào trao đổi vẻ nghiêm trọng. Ông Khiêm, liếc nhìn tôi nói khẽ.

- Lát nữa ông Tôn Thất Lang ra khỏi phòng mổ mà tươi tỉnh thì tình hình còn hy vọng. Còn không, thì hiện trạng là 3 phần hy vọng trên 7 phần đen tối…

Nhưng mổ xong, máu vẫn chảy mãi không cầm được. Hôm ấy là 26 tháng 5 năm 1979. Người ta đặt thi hài Kim Ngọc vào hòm thiếc, đưa sang Bệnh viện Việt Xô. Tôi và các cháu muốn ông Kim Ngọc an táng ở Vĩnh Yên, nhưng Tỉnh ủy không đồng ý, lệnh phải đưa lên Việt Trì.

Khi đưa thi hài Kim Ngọc ngang Vĩnh Yên, thì người ta cho xe nghỉ ở khúc quanh Rừng Lim, trước ngã tư tòa nhà Tỉnh ủy bây giờ, để cho các con cháu tạt qua nhà lấy quần áo và đồ đạc.

Tôi vội vàng về nhà lục tủ, chỉ có mấy bộ quần áo bộ đội, mấy bộ pi-gia-ma, đôi giày da sờn mũi, mấy đôi tất thủng.

Tang lễ được tổ chức trọng thể, trong điều kiện lúc bấy giờ. Phải 5 năm sau, ván thiên mộ của ông ấy sập, nấm sụp xuống, năm lần bảy lượt tôi lên xin các ông tỉnh lúc bấy giờ để sửa mộ cho chồng mà không được. Vì lúc đó còn phải xin ý kiến Trung ương…

Một lần nữa, tôi lại xin đưa Kim Ngọc về quê, nhưng các ông tỉnh nói rằng, Kim Ngọc là Bí thư của cả hai tỉnh, Việt Trì hay Vĩnh Yên thì đều là quê hương cả.

Một ngôi mộ xây bề thế ở vị trí trang trọng ngay bên dưới biểu tượng của nghĩa trang. Người phụ trách xây mộ cho Kim Ngọc đã ghé tai tôi nói nhỏ. “Chúng em đã xây hết gần một tấn xi măng đấy chị ạ”. Chẳng biết thực hư, tôi chỉ biết gật đầu cảm ơn.

Mãi đến khi chuyển ông ấy về nghĩa trang Vĩnh Yên cho tiện bề hương khói, gia đình vẫn lo ngày trước xây nhiều xi măng thế rất khó khăn di dời. Nhưng khi vừa đụng cuốc, xẻng vào thì chỉ mỗi bề mặt là có xi măng loáng nhoáng, bên dưới thì toàn gạch bở bục, xếp chồng lên nhau nên cũng dễ làm lắm…

Cái số ông ấy thế, nó long đong lận đận. Mổ dạ dày ba lần. Chôn xuống đào lên cũng ba lần. Bây giờ thì Kim Ngọc, mộ đã ốp đá granít, đúc tượng đồng rồi. Huân chương Độc Lập hạng Nhất cũng đã trao rồi…nhưng…

Bà Lê Thị Liên như vẫn còn điều gì đó bận lòng. Bà đứng dậy thắp cho chồng tuần nhang nữa, sau mới tiếp tục câu chuyện.

- Nhiều vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước về công tác Vĩnh Phúc hoặc đi ngang qua đều vào nhà thắp hương cho Kim Ngọc. Còn các đoàn đại biểu ở các tỉnh, nhất là các tỉnh phía Nam, có nhiều cụ đảng viên lão thành, khi thắp hương cho Kim Ngọc đã ứa nước mắt.

Cách đây mươi năm, tôi ở trong đoàn cán bộ cựu chiến binh về chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Biết tôi là vợ Kim Ngọc, Đại tướng đã kéo tôi ngồi lại gần và nói.

- Nông dân ta no ấm, trước hết là nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ. Nhưng trong quá trình xây dựng đất nước thì chúng ta phải cảm ơn Kim Ngọc, một đảng viên sáng tạo, dám chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân…

Khi còn đương chức, Chủ tịch nước Trần Đức Lương có vào thăm nhà tôi và tặng một túi quà và một triệu đồng. Tôi cũng đã thành tâm đề nghị Chủ tịch Trần Đức Lương về việc Đảng và Nhà nước cải chính hộ chồng tôi vài ba lời.

Ngày xưa báo N.D đã đăng bài phê phán ông ấy, thì nay cũng nên có đôi lời thưa lại. Cuộc đời đúng, sai là lẽ thường. Ông Kim Ngọc chắc không cần điều ấy, tôi cũng không cần điều ấy. Nhưng tôi nghĩ đến sau này khi tôi mất đi thì cũng nên có một sự rõ ràng minh bạch…

Tiếp lời tôi, ông Chu Văn Rỵ lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc tháp tùng Chủ tịch cũng đề nghị là nên phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho Kim Ngọc…

4. Chiếc đồng hồ và lời dặn của người cha

Ông Kim Nam, người con trai thứ ngồi trò chuyện cùng tôi đằng sau lưng bức tượng đồng Kim Ngọc, trong căn nhà đang đập phá tu sửa, thì nhớ lại những ngày tháng ấy với sắc thái điềm tĩnh, và lặng lẽ.

- Ngày ấy, tôi đang học lớp 7, hệ phổ thông mười năm. Tôi chỉ cảm nhận được rằng bố tôi rất buồn. Nhiều hôm, tôi đi học về chào bố. Bố tôi yên lặng, mắt mở to, thảng thốt, mênh mông. Rõ ràng là tôi đang ở trước mặt bố mà bố không nhận ra. Nhưng tôi biết làm thế nào giúp được bố đây?

Trong lúc ấy đường đường bố là người có quyền hành to nhất tỉnh Vĩnh Phú. Một tỉnh kéo dài từ sân bay Nội Bài đến giáp thị xã Yên Bái. Chẳng lẽ bố tôi đã quên mất tôi?

Mọi khi, tôi đi học về, bao giờ bố cũng bảo tôi mở cặp, cho bố xem bài vở. Tôi đã ra đầu hè ngồi nhìn mãi màu hoàng hôn, nghe muỗi bay. Trong bếp tiếng bát đũa, xoong nồi lách cách. Tiếng mẹ và em gái tôi se sẽ thì thào.

Dường như dòng chảy hồi ức trong người con trai thứ, bỗng tràn dâng. Tôi rụt rè hỏi:

- Bí thư Kim Ngọc có định hướng cho các con mình phải làm gì không? Ví như là kỹ sư nông nghiệp hay kinh tế chẳng hạn…

- Với các con, ông cụ không bao giờ áp đặt. Anh cả Kim Sơn thích máy móc, thì cụ cho đi học cơ khí. Tôi thích súng đạn, giày đinh, quân phục, nên đã tình nguyện đi bộ đội. Tướng Đồng Sĩ Nguyên là chỗ quen biết, nhưng khi tôi vào Trường Sơn ông cụ cũng chẳng một lời thông báo cho bạn, tôi đang là lính của ông. Hôm tôi nhận quyết định nhập ngũ, bố gọi tôi lên ngồi đối diện bàn làm việc trên Văn phòng, hỏi.

- Có chắc chắn là con thích làm bộ đội, trực tiếp chiến đấu?

- Vâng. Con thích ạ.

- Vậy thì con phải chịu trách nhiệm với bản thân con. Và phải hoàn thành nhiệm vụ người lính một cách tốt nhất. Đạo đức của con người và giá trị của con người, chính là nằm ở chỗ phải hoàn thành bổn phận, vai trò, công việc được giao phó, hay tự nguyện gánh vác.

Con có thể thương tật, con có thể hy sinh, nhưng phải trung thực. Một khi con rèn được phẩm cách trung thực, thì con mới có lòng dũng cảm…Đó là cả một hành trình... một hành trình làm người con trai ạ…

Nhìn tôi hồi lâu, rồi ông lặng lẽ tháo chiếc đồng hồ Rô-lếch, quà tặng của Quân khu Việt Bắc, năm ông rời chức vụ Phó Chính ủy Quân khu về làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, đeo vào cườm tay tôi.

- Nó sẽ giúp con trong những phiên gác, những lần hiệp đồng chiến đấu… Hôm nay con thích ăn gì bảo mẹ nấu cho. Ngày mai con đi tập trung, mẹ sẽ đưa. Bố bận đi xuống huyện…

Tôi lặng lẽ quay đi. Tôi cảm giác cái nhìn của bố mãi sau lưng, trước khi bố cúi xuống đọc chồng tài liệu. Suốt những tháng ngày chiến trường, tôi cũng chỉ là anh lính như bao anh lính khác. Cứ mỗi lần nhìn chiếc đồng hồ, là tôi lại nguôi ngoai nỗi nhớ nhà. Tôi hình dung ra ánh mắt của bố đang nhìn. Bao nhiêu năm, tôi gần như đứt liên lạc với gia đình.

Mãi sau, tôi biết, ở nhà dù không nói ra, nhưng cả bố và mẹ đều nghĩ tôi đã hy sinh. Bố đã làm rất nhiều thơ tặng tôi. Nhưng bố chỉ đọc cho mẹ nghe. Đến khi tôi về, thì mẹ mới đưa những bản thảo đó cho tôi đọc. Bố đã gọi tôi thảng thốt là bông hoa thương nhớ của cả nhà. Một bông hoa đi vắng. Một bông hoa chờ ngày đậu quả.

Thật tiếc, không hiểu sao những bài thơ đó lại không còn. Tôi đã làm thất lạc chúng, năm bố tôi ốm đau. Bố làm bài thơ, nhân ngày nhận được lá thư duy nhất tôi gửi từ B2, mẹ tôi thi thoảng bây giờ vẫn đọc: Hôm nay nhận được thư con/Khác nào nắng hạn gặp cơn mưa rào/Bao mùa chinh chiến gian lao/Nhưng con đã lớn đã cao với đời/Mênh mông trái đất vòm trời/ Vừa qua mới chỉ bước đời phải đi/khuyên con giữ trí kiên trì/ta đi đâu phải chỉ vì mình ta/tin vui ta viết vài câu/ gửi người đồng chí bấy lâu xa nhà.…

Nhìn nơi cổ tay ông Kim Nam trống trơn, tôi bỗng chạnh lòng.

- Thế cái đồng hồ hiện nay ở đâu mà không thấy anh đeo?

Kim Nam nhìn lên bức tượng đồng Kim Ngọc, giọng nhỏ khàn.

- Tôi vẫn giữ được chiếc đồng hồ bố cho và mang trở về cùng ngày chiến thắng. Đã mấy lần rơi xuống suối sâu, mấy lần tôi đều lặn xuống tìm lại. Tôi thấy được nó bởi ánh dạ quang le lói trong làn nước đục.

Sau này, chú em tôi thích, tôi đã đưa cho em dùng. Chú ấy ở Sài Gòn, mấy năm đầu chưa quen công việc, chắc là quá khó khăn nên đã không giữ lại được. Tôi biết, nhắn vào tìm cách chuộc lại nhưng không được…

Còn tiếp

Nguyễn Tham Thiện kế

theo tien phong ol

http://www.tienphong.vn/Tim-Kiem/Index.html?keyword=Nh%C3%A0%20c%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch%20Kim%20Ng%E1%BB%8Dc%20-%20cha%20%C4%91%E1%BA%BB%20kho%C3%A1n%2010

No comments:

Post a Comment

Trang