được sưu tầm bởi HXK

đây chỉ là những thông tin về những người mà tôi cho rằng họ giỏi, tôi khâm phục họ, tìm hiểu họ qua cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm cũng như tư tưởng của họ để lại trên thế gian này. cho những con người của thời đại họ sống và cho hậu thế.

Saturday, April 14, 2012

Hai cuốn sách viết về Hồ Quý Ly


Tiểu thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Xuân Khánh: 
Hồ Quý Ly 
Nbx Phụ nữ, 2007



Sách nghiên cứu của tác giả Nguyễn Danh Phiệt 
Hồ Quý Ly 
Viện sử học & Nbx Văn hóa thông tin
Bản phô tô


Đọc thêm!

Hồ Quý Ly - một nhân cách lịch sử



Trên vũ đài lịch sử nước ta vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, Hồ Quý Ly xuất hiện như một nhân vật lịch sử đặc biệt, đã để lại dấu ấn khá đậm trong trong sử cũ mà đậm nhất là một Hồ Quý Ly thoán đoạt, cướp ngôi nhà Trần. Theo quan điểm của các sử gia phong kiến, từ tác giả của Đại Việt sử ký toàn thư thời Trần - Lê Sơ cho đến các tác giả Cương Mục thời Nguyễn, họ đều không thừa nhận vương triều Hồ là chính thống. Điều này cũng dễ hiểu.

  Với luận văn này, chúng tôi xin chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu nhân cách Hồ Quý Ly, qua đó hiểu sâu hơn về con người của ông. Điều đó hẳn chưa phải, chưa đủ để nhìn nhận, đánh giá về sự nghiệp và vai trò của ông đối với tiến trình lịch sử.

  Để tìm hiểu nhân cách Hồ Quý Ly, chúng tôi thấy cần giải đáp ba điểm cơ bản: Hồ Quý Ly muốn gì, ông có thể làm được gì, và là người như thế nào? Đó chính là động lực thúc đẩy hành động, là bản lĩnh, năng lực cá nhân, là tính tình của ông - ba yếu tố cơ bản cấu thành nhân cách của một con người.

  Về điểm thứ nhất: Hồ Quý Ly muốn gì, hay nói cách khác là động lực nào đã thôi thúc Hồ Quý Ly xuất hiện trên trường chính trị một cách khá sôi động vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV?

  Tiếc rằng, chúng ta không có tài liệu về thời niên thiếu của ông - một thời kỳ khá quan trọng trong quá trình hình thành nhân cách của một con người. Vì vậy ngày nay chúng ta đành căn cứ vào sử liệu do các sử gia ghi chép về ông - người mà họ vốn mang nặng thành kiến về tội cướp ngôi. Chắc chắn các ghi chép đó sẽ thiếu khách quan theo hướng bôi đen, nhưng không còn cách nào khác, nếu chúng ta không dựa vào chính sử (1).

  Chúng ta đều biết, từ mối quan hệ ngoại thích, Hồ Quý Ly đã bước vào quan trường ở tuổi 35, thời Trần Nghệ Tông, vào năm 1370 với chức Chi hậu tứ cục chánh trưởng - một chức quan võ coi quân cận vệ mà chỉ có vương hầu, tông thất mới được gữi chức này. Chưa được một năm, tháng 5 năm Tân Hợi (1371), ông được thăng Khu mật viên đại sứ, và đến tháng 9 được gia phong làm Trung tuyên quốc thượng hầu. Sau khi Thượng hoàng Trần Nghệ Tông mất (1394), năm 1395, ông giữ chức Nhập nội phụ chính thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc Đại Vương. Và đến năm 1399, ông tự xưng là Khâm đức hưng liệt Đại Vương, Quốc tổ chương hoàng; năm 1400 tự lập làm vua. Ba mươi năm, một chặng đường dài gồm nhiều bước, từ một quan võ nhỏ, qua tước hầu, tước vương, ông trở thành hoàng đế. Qua đó, chúng ta thấy được ở Hồ Quý Ly, trước hết và rõ nhất là ông muốn có quyền bính và ông đã thực sự nắm được quyền bính tối cao vào năm 1400.

  Mặc dù quyền bính hay quyền lực xưa nay vẫn là đối tượng tranh chấp, giành giật, nhưng xét đến cùng đó mới chỉ là công cụ, phượng tiện mà mọi cá nhân, mọi tập đoàn muốn sử dụng nhằm đạt được một mục tiêu nào đó. Một khi không nhằm vào một mục tiêu cụ thể nào thì quyền bính sẽ trở thành vô nghĩa. Hồ Quý Ly theo những ghi chép của sử sách, ông không dừng lại ở chỗ tranh giành quyền bính vì quyền bính.

  Hồ Quý Ly và cả vương triều Trần nữa, mà tiêu biểu là Trần Nghệ Tông, vào những năm cuối thế kỷ XIV, với tư cách là những người nắm vận mệnh đất nước phải đương đầu với nhiều thử thách lớn lao. Đó là tình trạng bế tắc toàn diện của xã hội; mâu thuẫn giữa địa chủ và các loại: quý tộc, quan lại, bình dân với các tầng lớp bần dân - nô tỳ trở nên sâu sắc; nguồn nhân lực, tô thuế của nhà nước thiếu hụt; Nho giáo ngày càng phát huy vai trò, chiếm chỗ đứng trong bộ máy Nhà nước, đòi hỏi phải có những sự thay đổi, đẩy đám quý tộc ít học, bảo thủ xuống hàng thứ yếu. Sự rệu rã của xã hội Đại Việt đã nghiêm trọng lại càng nghiêm trọng hơn sau vụ Dương Nhật Lễ chiếm ngôi (1369-1397). Nhưng điều quan trọng hơn là mối hiểm hoạ ngoại xâm như “thanh gươm Damoclès” đã lơ lửng treo trên đầu dân tộc ta. Minh Thành Tổ sáng lập nên nhà Minh, lên ngôi năm 1368, làm vua đến năm 1398, đã có ý thức muốn vươn xuống phía Nam: nhà Minh đã sai Sứ sang Đại Việt ban sắc ấn, tế các thần sông Lô và núi Tản vào năm 1370, đòi lương thảo, voi, ngựa, tăng nhân, muợn đường đánh Chiêm Thành vào các năm 1384, 1385, 1386,1395. Trong khi đó ở mặt Nam, quan hệ Việt - Chiêm cực ký căng thẳng. Theo ghi chép của sử sách, từ nửa cuối thế kỷ XIV, ít nhất đã 16 lần Chiêm Thành đem quân tiến đánh Thăng Long (các năm 1371-1377-1378-1383) khiến cho vua Trần phải hai lần bỏ kinh đô đi lánh nạn vào các năm 1371 và 1383.

  Hồ Quý Ly có mặt ở vương triều Trần từ năm 1370. Ông được Trần Nghệ Tông (làm vua 3 năm từ 1370 đến 1372 và 22 năm làm Thượng hoàng, từ 1373 đến 1394) tin dùng, cất nhắc, “cặp kè” với nhau như hình với bóng. Họ thực sự là linh hồn chính trị ở thời Trần mạt. Vì vậy, Nghệ Tông - ông vua được vương hầu quý tộc dựng lên từ sông Đại lại (quê của Hồ Quý Ly), sau vụ Dương Nhật Lễ tiếm ngôi là người như thế nào? Lên ngôi vua năm 1370, vào lúc đã 40 tuổi đời, Nghệ Tông từng nói: “Triều trước dựng nước có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc, nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt trước nhau”(2). Hai mươi năm sau, vào năm 1390, lúc này ông đã giữ chức Thượng hoàng, nhìn thủ cấp chúa Chiêm Chế Bồng Nga bị chặt, ông nói: “Ta với Chế Bồng Nga cầm cự nhau đã lâu, ngày nay mới được gặp nhau, có khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ, thiên hạ yên rồi”(3). Tầm nhìn và tư cách của Nghệ Tông như vậy quả không phải loại thường. Hồ Quý Ly đã được Thượng hoàng Nghệ Tông cất nhắc lên chức vụ cao trong quân đội như: Tham mưu quân sự (1375), lãnh ấn Nguyên nhung Hải Tây đô thống chế (1380). Với Hồ Quý Ly, chúng ta thấy về tổ chức quân đội Trần ông đã có chủ trương sửa đổi: chọn tướng không cứ là tông thất, miễn người đó có học võ nghệ, thông hiểu thao lược là được sử dụng (1375); tuyển quân thì lấy người khoẻ mạnh bổ sung vào, thải bớt người già yếu (1375), chọn tăng nhân làm lính; nhiều lần sắm sửa binh quyền, khí giới, duyệt quân thuỷ bộ (1376). riêng bản thân Hồ Quý Ly, ông từng đem quân đi đánh Chiêm Thành. Lần cuối năm 1389, chống giặc Chiêm ở Thanh Hoá, mặt trận bị vỡ, Quý Ly về triều xin chiến thuyền, Thượng hoàng Nghệ Tông không cho, ông bèn xin thôi nắm quyền cầm quân, không đi đánh nữa. Sau khi lên ngôi làm vua, vào các năm 1400, 1402, Hồ Quý Ly - Hồ Hán Thương lại đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm Thành, giải quyết yên mặt Nam, để rảnh tay đối phó với giặc Bắc.

  Bên cạnh mặt quân sự, chúng ta thấy Hồ Quý Ly dưới thời Trần còn quan tâm, vun trồng văn hoá, giáo dục. Ông soạn sách Minh Đạo (1392) dịch thiên “Vô dật” trong Kinh thi ra chữ Nôm (1395), làm sách Thi Nghĩa (1396); đặt các chức giáo thụ, giám thư khố ở các châu trấn... (1397). Về kinh tế ông cho phát hành tiền giấy (1396); hạn chế danh điền (1397)...
  
  Bàn về tác dụng của những công việc làm trên của Hồ Quý Ly không phải là mục tiêu của luận văn này. Ở đây chúng tôi chỉ muốn lưu ý một điều: công bằng mà nói, chúng ta không hề thấy sử chép Nghệ Tông cũng như Hồ Quý Ly mắc các “bệnh” như ăn chơi xa xỉ, dâm dật, bòn rút của dân như bọn vua quan vào các buổi mạt thời của các triều đại. Trái lại, chúng ta chỉ thấy với một ý thức dận tộc cao, họ đã cố gắng, chèo chống trước sự rệu rã của xã hội, trước hiểm hoạ ngoại xâm. Nói rõ hơn, trong 30 năm phục vụ vương triều Trần, Hồ Quý Ly đã chia xẻ mối lo, gánh vác công việc chỉ vì mục tiêu chung là cứu nước. Kết hợp từ những việc ông đã làm và lời nói của ông với triều thần sau khi đã làm vua: “Làm thế nào có được 100 vạn quân để chống giặc Bắc” (4) hoặc lời thơ của ông trong bài “Cảm hoài” sau khi cuộc kháng chiến chống Minh thất bại, bị giặc bắt cầm tù:

             “Tướng quốc tài nan tàm Lý Bật
              Thiên đô kê chuyết khốc Bàn Canh”
               (Cứu nước tài hèn thẹn với Lý Bật,
               Dời đô kế vụng, khóc chuyện Bàn Canh),

  Chúng tôi nghĩ rằng với Hồ Quý Ly thì quyền lực chỉ là phương tiện nhằm đạt được mục tiêu cứu nước (tướng quốc) - một mục tiêu mà ông kiên trì theo đuổi trong 30 năm làm bề tôi nhà Trần và trong 7 năm làm vua, rồi thượng hoàng của ông. Đó là điều ông mong muốn, là động lực thôi thúc ông hành động. 

  - Về điểm thứ hai: Hồ Quý Ly có thể làm được những gì? 

  Trước hết, chúng tôi nghĩ rằng có lẽ không đến nỗi sai ngoa, lầm lẫn mà Thượng hoàng Nghệ Tông 7 năm trước khi mất (1387) cùng vua Trần Phế Đế đã lấy Quý Ly làm Bình chương sự và ban cho ông một thanh gươm và một lá cờ đề 8 chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”. Binh nghiệp cũng như văn nghiệp của ông đã được sách chép rõ. Ông hoạt động trên cả hai lĩnh vực tuy ông không phải từ khoa bảng xuất thân cũng không phải là võ quan“nhà nòi”, mặc dù ông thuộc dòng dõi quý tộc - quý tộc ngoại thích. Ở ông một con người kiêm cả văn lẫn võ đã rõ, còn có “tài”hay không, chúng ta còn phải bàn. Điều mà chúng tôi muốn nói ở đây là ông đã giám làm và đã làm những việc mà lúc đó không ai làm được.

  Về Võ, chỉ một việc khi giữ chức Tham mưu quân sự vào năm 1375, lập tức ông xin vua ban chiếu chọn tướng không chỉ dành riêng cho người tông thất đã là một đòn giáng vào đám quý tộc ít học, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIII - đầu thế kỷ XIV. Mặc dù bản thân ông, dưới triều Trần, chưa đánh thắng được giặc Chiêm, nhưng quân đội Trần qua nhiều lần ông tham gia duyệt tuyển bổ sung đã đánh thắng giặc Chiêm một cách oanh liệt. Ông đã dẹp yên mặt Nam trước khi giặc Bắc xâm lược. Thêm vào đó, trong công cuộc chống giặc Minh, xem xét kế hoạch phòng chống của ông với một loạt phòng tuyến ở phía Bắc, phía Nam, dọc sông Hồng từ Mộc Hoàn - Đa Bang đến hạ lưu, chúng ta thấy trong nghiệp võ ông là một viên tướng chiến lược có tầm cỡ, mặc dù ông chỉ huy cuộc kháng chiến này không thắng lợi.

  Về Văn, chúng ta nên hiểu theo quan niệm cũ, nghĩa là không chỉ có văn học, mà cả chính trị, kinh tế nữa. Theo dõi sự sắp đặt trong kinh, ngoài lộ, phủ vào những năm 1370 trở đi, bên cạnh vai trò quan trọng, quyết định của Nghệ Tông, chúng ta không thể phủ nhận sự đạo diễn của ông. Từ 1394, Nghệ Tông chết, sân khấu chính trị Đại Việt hoàn toàn diễn ra theo sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly. Từ việc thay vua cũ (Thuận Tông), lập vua mới (Thiếu đế An), rồi phế vua, giành ngôi, lập nên vương triều Hồ; tất cả đếu do ông sắp đặt. Nếu không phải là một chính trị gia “có hạng”, chắc chắn không làm nổi những công việc này.

  Cũng trong lĩnh vực văn, chúng ta còn biết ông từng biên soạn, dịch thuật, làm thơ, ông tôn sùng Nho giáo, mở mang việc học, lựa chọn nhân tài. Ở lĩnh vực này, ông chú trọng hai điểm rất cơ bản:

  1/ Đề cao chữ Nôm.

  2/ Học tập, tiếp thu phổ biến đạo khổng, có phê phán. Ông lên án lối học từ chương hư văn của Tống Nho - điều mà cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở nước ta mới có nhiều Nho sĩ lên án, ông chủ trương duy trì phát huy cái thực dụng, “sát với sự việc” vốn có của đạo Nho.

  Qua những việc làm của Hồ Quý Ly, chúng ta thấy ông là con người có hành động, có khả năng và bản lĩnh hoạt động trên cả ba lĩnh vực: quân sự, chính trị, văn hoá. Và ở lĩnh vực nào ông cũng có những đặc điểm nổi bật khác thường.

  - Về điểm thứ ba: Tính tình của Hồ Quý Ly.

  Có thể nói rằng Hồ Quý Ly là tổng hợp của nhiều năng lực: quân sự, chính trị, văn hoá, nhưng lại có một biểu hiện thống nhất: ông là con người hành động - hành động khác người, kiên quyết đến tàn bạo.

  Tìm hiểu Hồ Quý Ly ở mặt này, chúng tôi muốn xem xét đến cách ứng xử của ông trong các mối quan hệ xã hội.

  Trước hết, giữa ông và nhà Trần có sự ràng buộc chặt chẽ bằng hai mối quan hệ: thân tộc và quân thần. Về quan hệ thân tộc có thể tóm lược như sau: Hồ Quý Ly có hai người cô là phi của vua Minh Tông (trị vì: 1314- 1329), trong đó có một người sinh ra Nghệ Tông và một người sinh ra Duệ Tông. Mối quan hệ thân tộc này từ nghệ Tông làm vua (1370) cũng là lúc Hồ Quý Ly tham chính, mới thực sự được vun đắp thêm sâu nặng. Theo sử sách, Hồ Quý Ly làm phò mã nhà Trần, lấy Huy Ninh công chúa - con gái của Minh Tông, vào năm 1371. Như vậy chúng ta biết không chỉ có Minh Tông (1300 - 1357) mà cả Hiến Tông (1319 - 1341), Dụ Tông (1336 - 1369) lúc còn sống các mối quan hệ bố vợ - con rể, anh em rể chưa xuất hiện, xuất hiện vào thời Nghệ Tông. Đến thời Duệ Tông - con của Minh Tông và cô của Hồ Quý Ly - lên làm vua từ 1372 đến 1377, mối quan hệ này lại thắt chặt hơn. Duệ Tông lấy em họ của Hồ Quý Ly, tức Gia Từ hoàng hậu, sinh ra Đế Hiện, làm vua từ 1377 đến 1378. Tiếp đến Thuận Tông, làm vua 1387 đến 1398 lại lấy con gái của Hồ Quý Ly là Thánh Ngâu sinh ra Thiếu đế An, làm vua từ 1398 đến 1400.

  Như vậy hai ông vua cuối của triều Trần là con rể và cháu ngoại của Hồ Quý Ly. Mối quan hệ thân tộc khá chặt chẽ, lâu dài đến 4 thế hệ:

  Thế hệ I: Minh Tông;

  Thế hệ II: Hiến Tông, Dụ Tông, Nghệ Tông, Duệ Tông (đều là con của Minh Tông)

  Thế hệ III: Thuận Tông (con út của  Nghệ Tông) 

  Thế hệ IV: Thiếu đế An (con của Thuận Tông)

  Quan hệ thân tộc chặt chẽ lâu dài như vậy mà Hồ Quý Ly, theo sử sách đang tâm đối sử một cách không thương xót, phế truất Đế Hiện, sai thắt cổ cho chết (1388); sau khi Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly nắm toàn quyền, ông bức Thuận Tông dời đô, xuất gia, rồi sai người thắt cổ cho chết (1398);  phế truất Thiếu đế An (1400). Cho dù với bất kỳ động cơ nào, vì mục đích gì, đúng sai ra sao, thì cách ứng xử trên đối với các vua Trần, Hồ Quý Ly cũng đã bộc lộ tính chất tàn bạo của mình.

  Về quan hệ vua tôi, là một người am hiểu tôn sùng đạo Nho, chắc chắn Hồ Quý Ly hiểu rõ hơn ai hết quan hệ quân thần. Bởi vì dù là phò mã, là bố vợ, là ông ngoại của vua đi nữa thì Hồ Quý Ly vẫn chỉ là bề tôi, mà chữ trung là bất khả xâm phạm. Ấy thế mà, cũng theo sử sách, ông đã xem các vua Trần như những con rối dưới bàn tay điều khiển của mình, ông không ngần ngại khi cần phế lập, bức tử họ. Phải chăng ông quan niệm đã hết thời của“cặp Trần - Hồ” cùng nhau lo toan, chèo chống việc nước, sau khi Nghệ Tông qua đời (1394)? Phải chăng ông cho là “ngu trung”một khi phải trung với các vua Trần bất lực kèm theo đó là bọn quý tộc Trần ươn hèn; tất cả đã thành lực cản cho mục tiêu “tướng quốc” của ông; dẫu sao đi nữa, chúng ta vẫn thấy trong quan hệ vua - tôi, ông đã ứng xử một cách khác thường, vượt ra ngoài thông lệ.

  Trong quan hệ với đồng liêu, theo sử sách, ông cũng không ngần ngại trong việc thẳng tay diệt trừ bất kỳ ai dám cản trở, chống lại ông. Những việc giết đám đại thần Lê Á Phu.. vì bí mật tâu vua giết Quý Ly (1388); ngầm sai người giết Trang Định Vương Ngạc (1391); giết Phan Mảnh, Chu Bỉnh Khuê vì câu nói:“Trời không thể có hai mặt trời, dân không thể có hai vua” (1391); giết tông thất Trần Nhật Chương (1392) (thông qua Nghệ Tông), giết hai tông thất nhà Trần là Nguyên Ấn, Nguyên Dận và sĩ nhân Nguyễn Phù (1395); giết cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm, miếu lệnh Lê Hợp... (1397); và kinh khủng nhất là “Hội thề Đốn Sơn” (1399), một lúc 370 người bị giết vì mưu diệt trừ Hồ Quý Ly, do Thái bảo Trần Hãng và Thượng tướng quân Trần Khát Chân cầm đầu không thành, là chứng cứ cụ thể được sử sách ghi chép lại.

  Đối với quân cướp nước, về phía Nam là giặc Chiêm Thành, chúng ta đã biết rõ thái độ của ông như thế nào khi ông còn là bầy tôi của nhà Trần và cả khi ông đã giành được ngôi vua. Còn đối với giặc phương Bắc, không ai có thể nghi ngờ tinh thần kiên quyết và ý chí mãnh liệt trong chống giặc của ông khi ông đã tổ chức lại quân đội, thành lập các đội hương binh, các xưởng sản xuất vũ khí, đóng chiến thuyền; xây dựng các tuyến phòng thủ. Cuối cùng khi các tuyến phòng thủ bị vỡ, cha con ông chạy về phía Nam, bị giặc bắt ở Kỳ La (cửa Nhượng Hà Tĩnh), đày sang Yên Kinh. Người ta có thể hỏi tại sao ông không “sát thân thành nhân” để đến nổi làm vua một nước mà chịu rơi vào tay giặc, ông chiến đấu đến cùng, không đầu hàng đã đành, mà cũng không tự sát, tìm đến cái chết như thông thường các bậc vua chúa, cả người thường, hay làm một khi bị dồn đến đường cùng. Lại một lần nữa chúng ta thấy ông hành động vượt ra ngoài thông lệ. Cho đến nay chúng ta không biết rõ vào những năm cuối đời của ông ở đất giặc ra sao. Nhưng qua những câu thưo trong bài “Cảm hoài” của ông: 

          “Kim âu kiến khuyết vô do hợp,
           Đãi giá tu tri ngọc phỉ khinh”
           (Âu vàng bị mẻ, biết hàn gắn làm sao,
           Nên biết ngọc còn đợi giá, chứ không phải bị xem rẻ đâu)

  Chúng ta có cảm nghĩ rằng rằng tuy ông ở bước đưòng cùng nhưng không tuyệt vọng.

  Tóm lại, tìm hiểu qua các mối quan hệ xã hội và cách ứng xử của Hồ Quý Ly, chúng tôi thấy nỗi lên ở ông nhiều nét khác thường, không khuôn mình bó theo thông lệ. Khi còn là bầy tôi của nhà Trần, rồi trở thành hoàng đế, thượng hoàng ông đã khước từ hành động, ứng xử theo lối mòn. Trái lại ông luôn kiên định, nhất quán trong tư duy, hành động cách tân - thậm chí đến tàn bạo - vì mục tiêu “tướng quốc”.

  Như đã trình bày, với luận văn này chúng tôi không đặt cho mình nhiệm vụ đánh giá sự nghiệp của Hồ Quý Ly, mà chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu nhân cách của ông.

  Từ các mặt đã giải trình, chúng tôi thấy nổi lên ở Hồ Quý Ly là một người hành động, một nhân cách anh hùng.

  Nhất quán trong mục tiêu cứu nước; có năng lực và đủ bản lĩnh hoạt động trên các lĩnh vực quân sự, chính trị, văn hoá, kiên quyết đến tàn bạo trong hành động, ứng xử. Ở lĩnh vực nào ông cũng có nét khác thường, đến nỗi đương thời và về sau, một khi soi nhìn bằng cặp mắt “chính thống”, ông không tránh khỏi bị lên án nặng nề. Về quân sự thì bất tài để mất nước; về chính trị là “loạn thần tặc tử”, “tội các chất đầy”; về văn hoá là “khinh suất”, “không tự lượng sức”... Đó là cách nhìn nhận của các sử gia ngày trước. Vì quan điểm “chính thống” họ không nhìn nhận, hoặc không giám nhìn nhận ở Hồ Quý Ly những nét đẹp của một nhân cách anh hùng. 

  Tất nhiên anh hùng không phải là thần thánh, họ cũng là con người như mọi người, cũng có khuyết tật. Chỉ có điều khác là họ có năng lực nhận biết và hành động hơn người, họ giám suy nghĩ đến những điều, dám làm những việc mà người bình thường không suy nghĩ được, không làm được. Dĩ nhiên là họ phải suy nghĩ và hành động vì lợi ích chung, trong đó có lợi ích cá nhân mình. Ở Hồ Quý Ly đã có ảnh hưởng tác động đến tiến trình lịch sử và bộ mặt xã hội Đại Việt vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, là điều không thể phủ nhận được.

  Việc thành bại cuối cùng của ông hẳn không chỉ do cá nhân ông, mà còn do thời thế, do điều kiện khách quan trong bối cảnh chính trị - xã hội lúc đó quy định, mà nhiều khi cá nhân - dù là anh hùng, cũng chịu bó tay, ôm hận để rồi gánh chịu trách nhiệm trước lịch sử.

  Đặng Dung, người tiếp theo Hồ Quý Ly chống quân Minh thời hậu Trần, chẳng đã từng than: 

           “Vận khứ anh hùng ẩm hận đa”

  Và Phan Bội Châu, đầu thế kỷ XX cũng từng viết:
              
           “Bất tương thành bại luận anh hùng”

  Cho dù Hồ Quý Ly bị thất bại lớn, nhưng gần 600 năm sau ông, ngày nay xét lại lịch sử từ nhiều chiều, thông thoáng và biện chứng hơn, nhìn về ông, chúng tôi càng khâm phục và kính trọng ở ông nhân cách đặc biệt, có nhiều nét đẹp - nhân cách của một người anh hùng./.

  Chú thích:  
 
  (1) Các sự kiện, việc làm của Hồ Quý Ly dẫn trong bài, chúng tôi dựa vào Đại Việt sử ký toàn thư và Cương mục.
  (2), (3), (4) Đại Việt sử ký toàn thư. Bản dịch của Hoàng Văn Lân - NXB KHXH - Hà Nội, 1985, tập II, tr.151, 180, 202.
  (5), (6) Thơ của Hồ Quý Ly, Thơ văn Lý -Trần, tập III, NXB KHXH - Hà Nội, 1978, tr.249.    

  Nguồn: Nguyễn Danh Phiệt, Hồ Quý Ly - một nhân cách anh hùng, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, năm 1992, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Sử học. Trang 46 - 50. 



Đọc thêm!

Saturday, March 31, 2012

Nhà thơ Phùng Cung


Phùng Cung (1928 - 1997) là nhà thơ, nhà văn Việt Nam thế kỷ 20. Ông tham gia phong trào nhân văn giai phẩm tại miền Bắc vào những năm 1955 - 1957. Sau đó ông bị bắt giam 12 năm không có án, từ 1961 - 1973. Tác phẩm khiến ông rơi vào vòng lao lý là: Con ngựa già của Chúa Trịnh và Dạ Ký, ngụ ý đả kích những văn nghệ sĩ bẻ cong ngòi bút, không dám nói thật tiếng nói của mình, bị lưu đày trong cõi tung hô.

Bìa tập thơ Xem Đêm của NXB Hội Nhà Văn 
Ảnh: KHX

Tiểu sử

Phùng Cung: sinh ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại Vĩnh Yên
Năm 1945, ông tham gia cách mạng và làm chủ tịch liên xã Hồng Liên Châu. Ông lãnh đạo nhân dân nổi dậy cướp chính quyền.
Năm 1949, địch trấn áp dữ dội vùng kháng chiến, ông phải rút lên Chiến khu Việt Bắc và tham gia công tác văn nghệ ở đó.
Năm 1954, Thủ đô Hà Nội giải phóng, ông về sống tại Hà Nội và vẫn họat động văn nghệ cho đến khi bị bắt giam vào năm 1961.
Năm 1973, ông được phóng thích. Tuy nhiên vẫn bị quản thúc và theo dõi.
Sau khi được phóng thích, ông sinh sống bằng nghề làm đinh và vẫn âm thầm làm thơ. Tập thơ "Xem Đêm" của ông được nhà nước cho phép xuất bản vào năm 1995.
Sinh thời, trong những năm tháng gian khó sau khi mãn hạn tù, ông là người anh kết nghĩa thân thiết của nhà thơ Phùng Quán.
Năm 1997, ông qua đời vì lâm bạo bệnh.

Tác phẩm

Con ngựa già của Chúa Trịnh (truyện ngắn)
Dạ Ký (truyện ngắn)
Mộ Phách (truyện ngắn)
Kép Nghề (truyện ngắn)
Chiếc mũ lông(truyện ngắn)
Quản thổi (truyện ngắn)
Xem Đêm (thơ)
Phùng Cung - truyện và thơ

Một số bài thơ tiêu biểu

Chiều Cun Cút

Áo song chàng
Nón lá
Phới về quê
Dệt dạt tối ngày khoai dáy
Lúc thảnh thơi
Quần vận khấu bò
Rong ruổi chốn rau dưa
Tôi gõ rỗ
Khe khẽ ê a
Chiều cun cút
Một mình
Không lửa không đèn
Nhòm nhõm thâu đêm
Chết thèm cái bóng
Xa là trời sao
Gần là đom đóm.

Trà

Quất mãi nước sôi
Trà đau nát bã
Không đổi giọng Tân Cương


Đọc thêm!

Thursday, April 28, 2011

Giáo sư Trần Văn Giàu


Giáo sư Trần Văn Giàu (1911–2010) là nhà hoạt động cách mạng, nhà khoa học, nhà nghiên cứu lịch sử, triết học và là nhà giáo Việt Nam. Ông mất vào lúc 17 giờ 20 phút ngày 16 tháng 12 năm 2010, tại Bệnh viện Thống Nhất, TP. Hồ Chí Minh.

 Sự nghiệp cách mạng

 Thời thanh niên sôi nổi

Ông sinh ngày 6 tháng 9 năm 1911, quê quán tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tân An (nay là tỉnh Long An), sinh trưởng trong một gia đình điền chủ giàu có. Trong gia đình, ông có tên là Mười Ký, tuy nhiên nhiều người biết ông với tên Sáu Giàu.
Do điều kiện gia đình, năm 1926, ông lên Sài Gòn, theo học tại trường Chasseloup Laubat. Năm 1928, sau khi tốt nghiệp Tú tài, ông được gia đình cho sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với lời hứa “mang về hai bằng tiến sĩ”.
Tháng 3 năm 1929, ông xin gia nhập, trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và tham gia tích cực các phong trào công nhân và phong trào đấu tranh của du học sinh và công nhân người Việt ở thành phố Toulouse. Tháng 5 năm 1930, ông được công nhân và du học sinh Việt Nam ở Toulouse cử làm đại biểu lên Paris tham gia biểu tình trước dinh tổng thống Pháp đòi hủy án tử hình đối với các thủ lĩnh cuộc Khởi nghĩa Yên Bái. Do việc này, ông bị cảnh sát bắt giam tại nhà tù Loa Roquillis, sau đó ông bị Chính phủ Pháp trục xuất về nước.

Trở thành nhà cách mạng chuyên nghiệp

Trở về nước, cha ông chỉ nói: “Tận trung cũng là tận hiếu”. Ông trở lại Sài Gòn, dạy học tại Trường tư thục Huỳnh Công Phát, đồng thời tham gia hoạt động cách mạng ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Trong thời gian này, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, được tổ chức phân công cùng Hải Triều phụ trách Ban Học sinh và Ban Phản đế của Xứ ủy Nam Kỳ.
Sau cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, giữa năm 1931, ông được tổ chức đưa sang Liên Xô học tại Trường Đại học Đông Phương Matxcơva. Năm 1933, ông bảo vệ thành công đề tài tốt nghiệp “Vấn đề ruộng đất ở Đông Dương”, sau đó rời Matxcơva về nước.
Trở về Sài Gòn, ông tham gia tổ chức lại Xứ ủy Nam Kỳ, tham gia xuất bản tờ báo Cờ đỏ và bộ sách Cộng sản Tùng thư. Nổi tiếng với tài diễn thuyết cùng kiến thức sâu rộng cũng như kinh nghiệm hoạt động ở Pháp, Liên Xô, ông nhiều lần tham gia các buổi diễn thuyết trước hàng ngàn người ở Sài Gòn để đánh thức lòng yêu nước. Uy tín của ông ngày càng tăng trong quần chúng và cả trong giới nhân sĩ trí thức Nam Kỳ.
Với những hoạt động chống chính quyền thực dân công khai của mình, ông được chính quyền thực dân lưu tâm từ khi ông du học tại Pháp. Vì vậy, ngày 25 tháng 6 năm 1935, ông bị tòa án Pháp tại Sài Gòn kết án 5 năm tù và 10 năm quản thúc vì tội hoạt động lật đổ chính quyền. Khi bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn với số tù 6826 mpp, ông được các tù nhân cử làm Tổng đại diện, nhiều lần đấu tranh với Chúa ngục đòi cải thiện chế độ sinh hoạt của tù nhân. Vì vậy, để cách ly, ngày 26 tháng 6 năm 1937, ông cùng một số đồng chí bị đưa vào biệt giam tại Bâtiment S cho đến khi mãn hạn tù.
Ngày 23 tháng 4 năm 1940, ông mãn hạn tù, được tha, nhưng bị bắt lại sau mấy ngày và bị đưa đi an trí ở trại Tà Lài. Cùng chung chuyến áp giải với ông còn có Tào Tỵ, nhà báo Nguyễn Công Trung và một người lính áp tải là Trương Văn Giàu. Tại Tà Lài, ông một lần nữa được cử làm Tổng đại diện.
Cuối năm 1941, ông tham gia chỉ đạo một số anh em tù chính trị tổ chức vượt ngục Tà Lài. Bản thân ông tham gia chuyến vượt ngục đợt 2 vào đầu tháng 3 năm 1942, gồm 8 người, cùng với các ông Châu Văn Giác, Trần Văn Kiệt, Dương Văn Phúc, Trương Quang Nhâm, Nguyễn Công Trung, Nguyễn Văn Đức và Tô Ký. Cuộc đào thoát thành công, sau đó phân tán thành nhiều hướng. Trần Văn Giàu sau nhiều lần di chuyển, tìm cách bắt lại liên lạc và trở lại hoạt động tại Sài Gòn.

Lãnh đạo chớp thời cơ

Từ ngày 13 đến 15 tháng 10 năm 1943, một số đại biểu các tổ chức Cộng sản các tỉnh, thành Nam Kỳ họp hội nghị ở Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho quyết định tái lập Xứ ủy Nam Kỳ. Trần Văn Giàu vì không đến tham dự được, hội nghị bầu ông Dương Văn Phúc làm bí thư, tuy nhiên ông Phúc tuyên bố chỉ tạm nhận chức và sẽ trao lại chức vụ này cho ông Giàu. Hội nghị đồng ý.
Trên cương vị Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ, trong hoàn cảnh không liên lạc được với Trung ương ngoài Bắc, không hay biết việc Nguyễn Ái Quốc đã về nước, triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 8 và thành lập Việt Minh, ông “Không đành chịu ngồi chờ, bất đắc dĩ bọn tôi phải tự vạch ra một đường lối cách mạng” cho Nam Kỳ. Trong một thời gian ngắn, ông cùng các đồng chí tích cực hoạt động xây dựng cơ sở, nhằm có thể tập hợp lực lượng lớn chớp thời cơ đã được nhận định gần kề. Ông chủ trương: "Ta phải mạnh hơn tất cả các chánh đảng và giáo phái thân Nhật cộng lại thì mới mong đem chính quyền về tay nhân dân được”. Trên cơ sở đó, Xứ ủy đã:
  • Nhanh chóng khôi phục hệ thống tổ chức Đảng các cấp, đặc biệt, với các cơ sở tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Đích thân ông phụ trách Ban cán sự thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn.
  • Phục hồi tổ chức công đoàn, thành lập Tổng công đoàn Nam Kỳ (tháng 4 năm 1944), trong nửa năm, phát triển nhanh chóng 40 công đoàn cơ sở với 5.000 đoàn viên.
  • Tập hợp nhiều trí thức, sinh viên, nhà công thương vào một số tổ chức như Tân dân chủ đoàn, Hội truyền bá quốc ngữ, nhóm báo Thanh Niên…
  • Xuất bản báo Tiền Phong và các sách bỏ túi như “Việt Nam trên đường độc lập”, “Rạng đông của dân tộc”..., mở các lớp huấn luyện chính trị do chính ông trực tiếp là giảng viên.
Ông nhận định: “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân; riêng lực lượng của Đảng không làm nổi cách mạng; phải có sự tham gia, sự nổi dậy của hàng triệu đồng bào”[9]. Đặc biệt, với việc hậu thuẫn thành lập và nắm chắc tổ chức Thanh niên Tiền phong thông qua một số đảng viên bí mật như Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Thủ, Huỳnh Văn Tiểng,... Xứ ủy Nam Kỳ đã tạo được một bình phong cho các đảng viên Cộng sản hoạt động, nhanh chóng tập hợp được một lực lượng lớn, vượt qua các tổ chức chính trị khác thời bấy giờ, kể cả một nhóm những đồng chí Cộng sản của mình trong Xứ ủy Giải phóng.
"Trần Văn Giàu chỉ thị cho đảng viên cộng sản gia nhập Thanh niên Tiền phong ở mọi cấp, dùng Thanh niên Tiền phong làm vỏ bọc hợp pháp để khôi phục những mối liên lạc bí mật và làm phương tiện móc nối với các nhóm chống thực dân khác…Những đảng viên cộng sản tham gia TNTP đã lợi dụng địa vị hợp pháp của họ để tiến hành những công việc bí mật của Đảng như lập lại các mối quan hệ với chi bộ địa phương, kết nạp những đoàn viên TNTP đáng tin cậy nhất vào những “đội xung phong” hay thành lập các đơn vị Cứu quốc của Việt Minh”.
—David Marr

“Vào giữa hè 1945, phong trào Thanh niên Tiền phong kết nạp một số lớn đoàn viên trong vùng Sài Gòn và lan tỏa đến các làng xã… Nó được dùng như một phương tiện để phát triển hệ thống của Đảng cộng sản Đông Dương. Những người cộng sản nắm giữ những vị trí có chức trách ở mọi cấp trong phong trào và nhờ vậy có thể di chuyển và liên lạc một cách không giới hạn… Rõ ràng rằng chiến lược Thanh niên Tiền phong đã giúp những người cộng sản có vai trò lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc”.
—Stein Tønnesso

"Xứ ủy Nam Bộ đã nắm quyền kiểm soát một tổ chức thanh niên được thành lập dưới sự bảo trợ của Nhật gọi là Thanh niên Tiền phong… Thanh niên Tiền phong đóng vai trò vỏ bọc cho những nỗ lực của Đảng vận động thanh niên yêu nước phục vụ sự nghiệp cách mạng trong tương lai… Phong trào này lan rộng trong giai đoạn mùa xuân và mùa hè 1945 tại các trường học, nhà máy và làng xã. Đến tháng 8, Thanh niên Tiền phong đã có số hội viên trên một triệu, ở hầu hết các tỉnh Nam Bộ”.
—William J. Duiker

Ba lần hội nghị tại Chợ Đệm

Sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, nhận thấy thời cơ đã đến, Thường vụ Xứ ủy thành lập Ủy ban khởi nghĩa đêm 15 tháng 8 năm 1945 và triệu tập hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng bàn về khởi nghĩa, với dự định sẽ khởi nghĩa vào ngày hôm sau, nhân cơ hội Lễ tuyên thệ của Thanh niên Tiền phong tại Sài Gòn. Hội nghị họp tại Chợ Đệm tối 16, tuy nhiên, với kinh nghiệm Khởi nghĩa Nam Kỳ, một số đại biểu tranh luận gay gắt về thời điểm. Hội nghị đồng ý tiếp tục chuẩn bị chu đáo, chờ tin từ Hà Nội, dời ngày khởi nghĩa đến ngày 18.
Ngày 17, lễ ra mắt của 50.000 đoàn viên Thanh niên Tiền phong được tổ chức tại Sài Gòn, một hình thức biểu dương các lực lượng do Xứ ủy kiểm soát. Tuy vậy, các thành viên Xứ ủy đồng ý hoãn lại thời điểm khởi nghĩa. Thay vào đó, ngày 19, các lãnh đạo Mặt trận Việt Minh được Xứ ủy tổ chức "ra công khai", đã đưa ông lên vị thế nhạc trưởng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền chỉ vài ngày sau đó.
Sau khi nhận được tin Hà Nội khởi nghĩa thắng lợi, ngay sáng ngày 20 tháng 8, hội nghị Chợ Đệm lần thứ hai tiếp tục bàn việc khởi nghĩa, dự định sẽ khởi nghĩa ngay chiều hôm đó. Tuy nhiên, vẫn có đại biểu vẫn có ý e ngại việc quân Nhật vẫn còn một lực lượng có thể trấn áp tại Sài Gòn. Ông Giàu đề nghị chọn Tân An làm thí điểm khởi nghĩa và cử đại biểu trở về tỉnh phát động khởi nghĩa.
Khởi nghĩa ở Tân An thành công tối ngày 22 tháng 8. Hội nghị Chợ Đệm lần thứ ba tối ngày 23 tháng 8 đã lập tức chỉ định lập Ủy ban Hành chánh lâm thời cho toàn Nam Bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, với Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Chiều 24 tháng 8, lực lượng Thanh niên Tiền phong vũ trang dưới quyền lãnh đạo của Xứ ủy Nam Kỳ ở Tân An, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh khởi nghĩa giành chính quyền và và sau đó dồn về Sài Gòn. Ngày 25 tháng 8, đến lượt Sài Gòn nổ ra cuộc biểu tình lớn và hầu hết các cơ sở quản trị lọt vào quyền kiểm soát của Lâm ủy Nam Bộ.

Nhạc trưởng Nam Bộ

Tại Lễ đài Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, Lâm ủy Nam Bộ đã tổ chức buổi tiếp sóng Đài Tiếng nói Việt Nam và phát thanh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập qua hệ thống loa phóng thanh nhưng do kỹ thuật, việc tiếp sóng không thành. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Thủ lãnh Thanh niên Tiền phong, Bộ trưởng Y tế trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc tuyên thệ của Chính phủ. Nhà báo Nguyễn Văn Nguyễn thay mặt Xứ ủy Nam Kỳ và Kỳ bộ Việt Minh kêu gọi ủng hộ Việt Minh. Và Trần Văn Giàu thay mặt cho Lâm ủy Nam Bộ ứng khẩu bài diễn văn chào mừng ngày lễ Độc lập. Khi đó, ông mới vừa 34 tuổi.
Trước đó, song song với Xứ ủy Nam Kỳ được thành lập lại từ tháng 10 năm 1943 do ông làm Bí thư, còn có một tổ chức của Đảng Cộng sản Đông Dương khác hoạt động độc lập. Để phân biệt, các nhà nghiên cứu lịch sử thường gọi là Xứ ủy Giải phóng, vì cơ quan ngôn luận của tổ chức này là báo Giải phóng, hoặc Việt Minh cũ, còn Xứ ủy do ông Giàu làm bí thư thường gọi là Xứ ủy Tiền phong, vì cơ quan ngôn luận của nó là báo Tiền phong, còn gọi là Việt Minh mới.
Sau khi Xứ ủy Nam Kỳ cũ bị chính quyền thực dân bắt bớ làm vô hiệu hóa từ giữa cuối năm 1941, một số đảng viên Cộng sản gồm Trần Văn Vi, Lê Hữu Kiều, Lê Minh Định, Trần Văn Trà, Chế (thợ giày), Bùi Văn Dự,... trong nhóm xuất bản bí mật tờ báo Giải phóng, hoạt động động lập và vẫn mang danh nghĩa Kỳ bộ. Nhóm dự định tổ chức lại Xứ ủy Nam Kỳ với thì trụ sở tại Sài Gòn, tuy nhiên do hoàn cảnh các thành viên chủ chốt bị truy bắt, phải liên tục di chuyển nên thường bị mất liên lạc, không triệu tập được.
Sau khi thành lập Xứ ủy Nam Kỳ mới, ông Giàu đã mời bà Nguyễn Thị Thập, một thành viên của nhóm Giải phóng, cùng tham gia Xứ ủy. Tuy nhiên, do sự khác nhau về cách thức tổ chức nên việc thống nhất lãnh đạo không thành. Nhóm Giải phóng vẫn tiếp tục hoạt động độc lập và xây dựng cơ sở riêng. Tháng 11 năm 1944, hầu hết thành viên của nhóm Giải phóng đều bị chính quyền thực dân bắt giam, nhà in cũng bị phá vỡ. Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, nhiều thành viên lợi dụng cơ hội thoát khỏi nhà giam. Ngày 20 tháng 3 năm 1945, nhóm Giải phóng họp tại Xoài Hột (Mỹ Tho) và lập Xứ ủy Nam Kỳ lâm thời và bầu Dân Tôn Tử (tức Trần Văn Vi) làm bí thư. Tháng 5 năm 1945, Xứ ủy lâm thời họp tại Bà Điểm (Hóc Môn) lập ra Xứ ủy chính thức, gọi là Ban cán sự Nam Kỳ, do Lê Hữu Kiều làm bí thư.
Nền độc lập chỉ chưa tròn 1 tháng, và lực lượng dưới quyền kiểm soát của Lâm ủy tuy đông nhưng không có nhiều kinh nghiệm quản lý. Tình trạng vô chính phủ xảy ra ở nhiều nơi. Các tổ chức chính trị khác cũng độc lập phát triển thế lực riêng. Việc có cùng lúc 2 tổ chức Xứ ủy ở Nam Bộ dẫn đến việc giảm đi khả năng và uy tín của Đảng Cộng sản tại Nam Bộ, thậm chí đã có những mâu thuẫn và xung đột giữa 2 tổ chức này. Trong khi đó, từ ngày 12 tháng 9 năm 1945, quân Pháp liên tục đổ vào Sài Gòn, thường xuyên khiêu khích hoặc đặt ra các điều kiện bất bình đẳng, một mặt kích động xung đột giữa các tổ chức, tìm cớ can thiệp vũ trang. Trước tình hình đó, chính quyền Lâm ủy non trẻ yếu ớt chỉ còn cách trì hoãn để chuẩn bị kháng chiến.
Đêm 22 tháng 9, quân Pháp nổ súng chiếm trụ sở Lâm ủy Nam Bộ, Quốc gia Tự vệ cuộc và một số cơ sở chính quyền Lâm ủy khác. Một mặt, do chuẩn bị từ trước, các lãnh đạo của Lâm ủy lập tức thoát khỏi sự truy bắt và chỉ đạo các đội vũ trang phản công. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, trong hội nghị tại nhà số 629 đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi), ông được cử làm chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ, phát lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến.
"Đồng bào Nam Bộ,
Nhân dân thành phố Sài Gòn,
Anh em công nhân, thanh niên, tự vệ, dân quân, binh sĩ!
Đêm qua thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở chính quyền ta ở trung tâm Sài Gòn. Như vậy là Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Ngày 2 tháng 9, đồng bào đã thề quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ độc lập của Tổ quốc.
Độc lập hay là chết!
Hôm nay
Ủy ban kháng chiến kêu gọi
Tất cả đồng bào, già, trẻ, trai, gái hãy cầm võ khí xông lên đánh đuổi quân xâm lược.
Ai không có phận sự do Ủy ban kháng chiến giao phó, thì hãy lập tức ra khỏi thành phố. Những người còn ở lại thì:
- Không làm việc, không đi lính cho Pháp.
- Không đưa đường, không báo tin, không bán lương thực cho Pháp.
Hãy tìm thực dân Pháp mà diệt.
Hãy đốt sạch, phá sạch các cơ sở, xe cộ, tàu bè, kho tàng, nhà máy của Pháp.
Sài Gòn bị Pháp chiếm phải trở thành một Sài Gòn không điện, không nước, không chợ búa, không cửa tiệm.
Hỡi đồng bào!
Từ giờ phút này, nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp, tiêu diệt tay sai của chúng.
Hỡi anh em binh sĩ, dân quân, tự vệ! Hãy nắm chặt vũ khí trong tay xông lên đánh đuổi thực dân Pháp, cứu nước.
Cuộc kháng chiến bắt đầu!
Sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945
CHỦ TỊCH ỦY BAN KHÁNG CHIẾN NAM BỘ"
—Trần Văn Giàu ---
Cùng với các đồng chí của mình, ông đã làm hết sức mình, ra các biện pháp để tập trung lực lượng liên hiệp chống Pháp, cứng rắn trấn áp các nhóm chính trị vũ trang có xu hướng ly khai Lâm ủy. Chính từ những chỉ thị này, ông thường bị những người đối lập xem là tàn bạo, lạnh lùng và vô cảm.
Sự nghiệp giáo dục
Giữa tháng 10, Trung ương điều động ông và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch ra Hà Nội. Ông đề đạt nguyện vọng: cho phép ông trở lại chiến trường Nam bộ, nếu không được thì cho ông sang Campuchia và Thái Lan lập một căn cứ hậu cần cho Nam Bộ. Nguyện vọng thứ hai của ông được chấp thuận. Từ nước ngoài, ông vừa vận động nhiều thanh niên Việt kiều về Nam bộ chiến đấu, vừa mua sắm vũ khí tiếp tế cho quân dân Nam Bộ.
Cuối năm 1946, Trung ương đã cử Lê Duẩn vào Nam Bộ, thống nhất các nhóm Cộng sản Tiền phong và Giải phóng vào một tổ chức lấy tên gọi Xứ ủy Nam Bộ. Các tổ chức Tiền phong và đơn vị vũ trang đều được sát nhập vào Việt Minh, dùng danh xưng thống nhất trên toàn quốc. Sự phân biệt Việt Minh cũ và Việt Minh mới bấy giờ mới chấm dứt hoàn toàn.
Đầu năm 1947, ông được điều trở về Việt Bắc để đảm nhận chức vụ Tổng giám đốc Nha Thông tin. Năm 1951, ông tham gia Bộ Giáo dục, xây dựng ngành dự bị đại học và sư phạm cao cấp.
Tháng 11 năm 1954, Đại học Sư phạm Văn khoa và Đại học Sư phạm Khoa học được thành lập, ông trở thành Bí thư Đảng ủy đầu tiên của Đảng bộ trường, kiêm giảng dạy các môn khoa học Chính trị, Triết học, Lịch sử thế giới và Lịch sử Việt Nam (được coi là người sáng lập những ngành khoa học này của nền Khoa học Sư phạm Việt Nam hiện đại).
Năm học 1955 - 1956, ông được Nhà nước phong học hàm Giáo sư đợt đầu tiên. Giữa năm 1956, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, ông được cử giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nhưng vẫn tham gia đào tạo ở Đại học Sư phạm Hà Nội .
Những năm 1962 - 75, ông công tác tại Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam).
Từ năm 1975 đến nay, ông tiếp tục nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội.
GS Trần Văn Giàu đã bán ngôi nhà của mình lấy 1.000 lượng vàng gửi ngân hàng để làm Quỹ Trần Văn Giàu. Từ lãi suất của 1.000 lượng vàng này, hàng năm Giải thưởng Trần Văn Giàu được trao cho các công trình nghiên cứu ở trên hai lĩnh vực: Lịch sử và Lịch sử tư tưởng liên quan đến cực Nam Trung bộ (tỉnh Bình Thuận) và Nam bộ Việt Nam.
Ông qua đời lúc 17 giờ 20 phút ngày 16 tháng 12 năm 2010 tại bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh.

Gia đình và học trò

Trần Văn Giàu một đời hoạt động cách mạng, không con cái. Tuy vậy, trong sự nghiệp giáo dục của mình, ông đã được xem là thầy của nhiều nhân vật nổi tiếng.

Danh hiệu và Giải thưởng

Tác phẩm


Nguồn: Bách khoa toàn thư mở  vi.wikipedia.org
Đọc thêm!

Giáo sư Trần Văn Giàu Huyền thoại về một con người



Vũ Trường Sơn
Giáo sư sử học, Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng lao động Trần Văn Giàu sinh ngày 6/9/1911 tại xã An Lạc Long, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Cuộc đời hoạt động cách mạng, dạy học và nghiên cứu khoa học 'của ông là một tấm gương sáng về ý chí và bản lĩnh, về sự quả cảm và đức hy sinh, về tài năng và nhân cách. Ông là một nhà cách mạng tiêu biểu, là nhà giáo và nhà sử học lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX. Hiện nay, tuy đã bước vào tuổi 94 nhưng ông vẫn rất minh mẫn và miệt mài làm việc với mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa cho dân, cho nước trên các lĩnh vực khoa học và giáo đục.
Hai lần xuất ngoại du học
Năm 1928, sau khi tất nghiệp trường trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn, ông sang Pháp du học tại Đại học Toulouse với quyết tâm sẽ đậu hai bằng Tiến sĩ rồi về nước viết báo và mở văn phòng luật sư. Tại Toulouse, dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của các đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và bắt đầu bước vào cuộc đời hoạt động cách mạng. Cũng tại đây ông được đọc cuốn sách "Bản án chế độ thực dân Pháp" của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và bắt đầu "làm chính trị" khi tròn 18 tuổi.
Khi khởi nghĩa Yên Bái (1930) thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp trong biền máu, người đảng viên cộng sản Trần Văn Giàu được cử thay mặt học sinh, thanh niên và những người lao động ở Toulouse lên Paris tham gia biểu tình phản đối và bị Pháp bắt giam. Sau đó, ông cùng 18 người bạn của mình bị trục xuất về nước (tháng 6/1930). Cuối năm đó, ông bí mật gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Giữa năm 1931, ông được cử sang Mátxcơva học Trường Đại học Đông Phương. Tại đây ông được học những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin... Cùng học với ông có những người sau này trở thành các lãnh tụ của Đảng như Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập...
Ba lần làm thầy giáo
Năm 1933, ông bí mật trở về nước và hoạt động cách mạng với nhiệm vụ chủ yếu là đào tạo cán bộ cho Đảng. ông bị địch bắt giam 7 năm tù ở Khám Lớn Côn Đảo, Tà Lài. Tại các trại giam này ông bị giam cùng với những lãnh tụ và cán bộ của Đảng như Tôn Đức Thắng, Hà Huy Tập, Tô Ký, Dương Quang Đông,.. Trong tù, cùng với các đồng chí của mình, ông giảng bài và biên soạn tài liệu để phổ biến, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, về Đảng cộng sản... ông trở thành "Thầy giáo đỏ" như cách gọi hồi đó và đây là một nét đặc sắc trong nghề dạy học của ông.
Những năm 1944 - 1945, sau khi vượt ngục, ông tổ chức lớp học ở Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ, là Chủ tịch UBHC lâm thời Nam Bộ. Năm 1949, ông ra chiến khu Việt Bắc giữ chức vụ Tổng Giám đốc Nha thông tin. Hai năm sau, năm 1951, ông được cử vào vùng tự do Thanh Hoá xây dựng trường Dự bị Đại học. Ông đã cùng với các trí thức lớn như Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Đức Chính, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Cao Xuân Huy... đào tạo được một thế hệ học sinh dự bị Đại học mà giờ đây hầu hết đều đã trở thành các nhà lãnh đạo quản lý, các nhà khoa học đầu ngành, các chuyên gia lớn của đất nước về khoa học và giáo đục... Năm 1954, ông là Bí thư Đảng uỷ trường Đại học Sư phạm, kiêm giảng dạy các môn khoa học chính trị, triết học, lịch sử cận hiện đại thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam. Năm 1956, khi trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập, ông là Bí thư Đảng uỷ của trường kiêm chủ nhiệm sáng lập khoa Lịch sử. Cùng với các Giáo sư Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, ông đã góp phần lớn công sức và trí tuệ của mình để đào tạo những thế hệ các nhà sử học macxít đầu tiên cho đất nước. Trong số đó có những người giờ đây đã trở thành những tên tuổi lớn của sử học Việt Nam như các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng...
Nhà khoa học lớn của đất nước
Là một trí thức lớn có nhiều hiểu biết uyên thâm trên các lĩnh vực của khoa học và đời sống, Giáo sư Trần Văn Giàu đã kết hợp hoạt động khoa học và cách mạng, trước hết là kết hợp giữa lý luận Mác - Lênin với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở Việt Nam và trên thế giới. Những công trình đồ sộ của Giáo sư Trần Văn Giàu chứa đựng một nội dung phong phú về trí tuệ của dân tộc và thời đại. Có thể kể tới một số công trình lớn (trong đó có một số công trình đã được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh) như sau:
Bộ sách về triết học gồm 3 quyển: "Biện chứng pháp”, "Vũ trụ quan”, “Duy vật lịch sử”.
"Chống xâm lăng" (3 tập).
"Lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam" (4 tập).
"Lịch sử Việt Nam" (chủ biên, 8 tập).
"Miền Nam giữ vững thành đồng" (5 tập).
“Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám" (3 tập).
“Địa chỉ văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh" (chủ biên, 4 tập).
Giải thưởng sử học Trần Văn Giàu Khi đã bước vào tuổi 90, Giáo sư Trần Văn Giàu quyết định bán căn nhà của mình và ông hiến tặng số tiền trị giá 1.000 cây vàng (thời giá năm 2001) cho Hội khoa học Lịch sử Việt Nam dùng làm quỹ giải thưởng cho những công trình sử học nghiên cứu về Nam Bộ. Đây là lần đầu tiên ở nước ta có một giải thưởng mang tên một người khi người đó còn sống.
Nguồn:  Tạp chí Nghiên cứu con người

Dẫn theo Chungta.com
Đọc thêm!

Saturday, November 27, 2010

Nhà cải cách Kim Ngọc - cha đẻ khoán 10

TP - Kim Ngọc- tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh 10 tháng 10 năm 1917, tại xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Mất ngày 26 tháng 5 năm 1979.

Tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam 1939. Năm 1954, Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc. Năm 1958, Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phúc. Từ năm 1968 đến 1978, Bí Thư tỉnh Vĩnh Phú. Kim Ngọc được coi là cha đẻ của khoán hộ mà người ta quen gọi là “khoán 10”, và đổi mới trong nông nghiệp ở Việt Nam.

1. Thời ăn bo bo

Năm 1980, rằm tháng Giêng, tôi, anh lính binh nhì viết văn phong trào của Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới - Sư đoàn 411, nằm khoèo nơi trạm khách dưới chân tháp cảnh giới của người Pháp sót lại trên đồi Ga Vĩnh Yên.

Những cơn đói quằn quại ẩn trong mỗi nơ ron thần kinh, mỗi tế bào tuổi 20 khát thèm tinh bột và protein, cấu xé rùng rùng từ đầu tới chân. Tiêu chuẩn lính chiến đấu 24 kg lương thực, nhưng bữa ăn đại táo bày ra trên chiếc vung xoong quân dụng chỉ là những cục bo bo rã rời hăng mùi cứt mọt (thứ mà ở Đông Âu người ta cũng không dám cho gia súc ăn) và rúm rau muống luộc ố vàng như gốc rạ.

Gió trung du đồi sỏi khan lạnh lùa qua kẽ nứa thưa đan, tôi ngắm cánh đồng chưa kịp cấy lúa lõng bõng nước, mấp mô luống cày. Đám nông phu còm cõi, uể oải níu vai chiếc bừa đeo bám đít trâu bò gầy mõ bương đi dật dờ trong cơn mê ngủ.

Sát hàng rào kẽm gai, vạt ruộng rau muống váng phèn ám đỏ như ngấm a-xít, lơ phơ màu hoa trắng tím. Bà già trùm áo tơi lá và đứa cháu trai áo sợi quân dụng, nhưng quần lửng đùi chừa ra đôi chân như ống tre còi. Bà và cháu khua liềm làm cỏ rau muống. Bà và cháu cùng mót những cọng rau muống trụi lá, cứng dai như tay tre gai đồi sỏi. Bà và cháu trịnh trọng bỏ từng cọng rau vào chiếc rổ thưa méo miệng…

Bỗng tôi nhận được lệnh tháp tùng hai sĩ quan: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển - Trưởng Ban tuyên huấn và trung tá Phạm Quế Dương- Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn ra bên ngoài doanh trại.

Cho đến bây giờ, tôi cũng chẳng hiểu tại sao hai sĩ quan trải qua hai cuộc kháng chiến đó, giỏi tiếng Pháp, thích ô-pê-ra, chơi vi-ô-lông, rèn luyện bóng bàn lại chiếu cố đến tôi. Quân phục mới nức, hai viên sĩ quan quân hàm quân hiệu sáng chói khoác va-rơi màu cỏ, bước nhanh ra khỏi tầng hầm trại lính cũ, nghiêm trang, trịnh trọng và trầm buồn. Tôi giập gót, giơ tay lên đầu, đáng lẽ nói: Chào các thủ trưởng ạ, thì tôi lại cháu chào hai bác ạ. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển cau mày.

- Cậu định làm nông dân đến bao giờ nữa đây. Gần quá tuổi quân rồi.

Trung tá Phạm Quế Dương mải nghĩ gì đó nhưng tâm vẫn dính vào vụ việc. Ông phẩy tay.

- Chậc, nước Việt ta thì có làm vua 13 đời thì cắt gân gót vẫn còn máu nông dân. Có lẽ tại chúng ta sắp đi thắp hương cho anh Kim Ngọc - một đảng viên của những đảng viên - một nông dân của những nông dân nên linh ứng chăng.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển nhìn cấp trên đắn đo.

- Có gọi xe không anh ? Tôi sợ anh sẽ lạnh…

- Đi thăm Kim Ngọc mà đi ô tô được sao. Kim Ngọc từng xắn quần lội ruộng lầy mùa đông thăm lúa, thăm ngô quanh năm. Ta cuốc bộ. Sĩ quan bộ đội Việt thì khác gì Chủ nhiệm HTX nông nghiệp.

Tắt qua đại đội vận tải đã là Xí nghiệp nung vôi liền kề ga Vĩnh Yên. Khói than. Bụi vôi. Bụi than. Bụi từ người lính, bụi người dân tứ xứ đứng, ngồi dồn ứ hai bên đường ke thành màn sương xám tê tái lơ lửng nhấn chìm mọi vật vào âm u.

Bộ đội quân phục nhàu nhò, súng đạn lấm lem. Nông dân thì vàng ệch, bao tải, quang sọt, đòn sóc, thừng chão quấn ngang lưng. Sắn tươi, sắn khô, su hào, bắp cải, cá mắm, măng khô, chè tươi, cắp nách, bưng bê, giấu giếm đâu đó. Mùi thối rữa. Mùi tanh ngắt.

Phòng thuế, công an thi thoảng lại thổi còi choe choé đuổi bắt. Tiếng chân chạy thục mạng. Hơi thở hồng hộc. Vấp, ngã. Xin xỏ. Van lạy. Thề thốt. Đầu tàu già cỗi, oằn oại kéo theo những toa hàng han rỉ…

Ngôi nhà lè tè nhưng vẫn có cảm giác chênh vênh bởi sự đơn độc của nó. Tường trát thiếu vôi, thiếu xi nổi cát. Ngói lợp khập khiễng, lệch xô. Đống sạn cát, gạch vỡ, ngói thủng được chủ nhân tận dụng để chờ xây dựng tiếp chỗ nào đó, xếp gọn gàng phía sau nhà. Xung quanh là nước đầm Vạc đục ngầu và nghĩa địa nhấp nhô.

Con chó gié từ đâu xộc ra oẳng lên rủa ngân nga, sầu muộn.

Hai vị sĩ quan chỉnh đốn quân phục, trước khi bước qua cánh cổng khép hờ. Ven bờ rào, căng dây thép gai rỉ, ngang thân cọc tre, dăm cây xoan, dăm cây mít mới độ bén đất ấm rễ. Hàng chè để hái lá tươi vươn cao, nhưng còn mảnh mướt lả ngọn. Vườn táo lai Thiện Phiến bắt đầu trổ búp mới.

Người đàn bà trắng xanh, tầm ngoại ngũ tuần, khăn len kẻ trùm đầu, kính râm, áo len dài tay màu mận, quần lụa đen óng, đôi dép nhựa xanh ngọc. Hai cánh tay đặt trước bụng, người đàn bà từ tốn cất giọng trầm, và ấm. Nhưng sao tôi vẫn cảm được sự xa cách, hờ hững thấp thoáng nỗi buồn không thể cởi gỡ. Bà Lê Thị Liên, người bạn đời của Bí thư Kim Ngọc.

- Các ông đến thăm nhà ạ. Xin mời các ông vào.

Tiếng dép lạch xạch lướt đi chầm chậm.

Bà đi ra từ cửa ngách, nhưng lại vòng ra trước rẻo sân lát gạch, xanh rêu, có cửa gian khách. Hai cánh cửa sơn xanh, khẽ một cái đẩy tay, hai cánh cửa sơn xanh đã lật úp vào hai bên tường. Mùi hương trầm ào ra. Một bàn thờ đơn sơ. Mâm ngũ quả. Bát hương, dày đặc chân nhang. Những que hương cháy hết uốn cong cong ôm lấy bát hương y như những bông lúa cháy đen ôm gốc rạ sau vụ hỏa hoạn.

Bức chân dung Kim Ngọc trịnh trọng trong bộ vest. Tóc rẽ ngôi lệch cổ điển. Khuôn mặt chữ điền, mắt sáng, hồn hậu. Đâu đó ẩn trong khoé miệng nụ cười hơi diễu cợt nhưng viên mãn.

Kim Ngọc đang chào một ai đó. Kim Ngọc đang khuyến khích một ai đó. Kim Ngọc đang chờ đợi một ai đó. Rõ ràng người trong ảnh đang rất tự tin và chẳng hề lo nghĩ bất cứ điều gì. Có vẻ như ông đã chụp ảnh trước khi đi dự hội nghị hay là chuẩn bị bước lên máy bay. Bay cao.

Tôi có cảm giác nghi ngờ về những thông tin ông xuất thân từ nông dân, am hiểu nông dân như là hiểu những vết sước trên mỗi ngón tay mình. Trông ông cứ như là cán bộ đối ngoại chuyên nghiệp.

Cởi áo khoác, hai sĩ quan nhìn quanh tìm chỗ treo áo. Tôi nhanh nhảu định đỡ áo, thì người đàn bà đã vội đón trước tôi, móc lên chiếc móc áo gắn trên tường ngoài hiên. Tôi nghĩ thầm, đó là chiếc móc áo những ngày trước bà Lê Thị Liên vẫn thường treo móc áo cho chồng. Trung tá Phạm Quế Dương nói:

- Thưa chị Kim Ngọc. Tôi quen anh nhà. Từ hồi anh làm Cục trưởng dân quân tự vệ. Còn anh Chiển vốn là chiến sĩ cũ của anh ấy. Năm ngoái anh mất, tôi ở xa. Hôm nay nhân ngày rằm, và cũng là dịp tôi được điều về nhận nhiệm vụ ở gần đây, hai chúng tôi xin chị, cho phép chúng tôi được thắp cho anh Kim Ngọc nén hương. Những mong linh hồn anh phù hộ độ trì cho đất nước. Phù hộ độ trì cho người nông dân cơm no ấm áo. Mong anh siêu thoát.

Đặt đồ cúng lên mặt bàn thờ đơn sơ. Hai viên sĩ quan dàn ngang, rập gót giơ tay chào kiểu quân sự. Tôi đứng sau nên lúng túng giây lát mới có thể lóng ngóng làm theo. Bà Lê Thị Liên bất ngờ ngẹn ngào, chắp tay đáp lễ.

Tôi lặng quan sát. Nhiều ảnh đen trắng trong khung kính. Mấy tấm bằng khen, giấy khen, huân, huy chương. Gắn dọc hai bên bức tường lồi lõm, của gian khách chật hẹp. Trong nhà chỉ có bộ bàn ghế kiểu Minh triện, đơn giản, trang nhã làm bằng gỗ gụ là trau chuốt. Nước vối nóng hổi rót liền trong ấm giỏ. Đĩa kẹo chanh Hải Châu đã lọt gió, thuốc lá Tam Đảo trịnh trọng mời khách. Bà Liên nhìn sang tôi:

- Gày xanh như thế này thì đi giữ chốt làm sao. Ăn đi con…Tuổi này thì bữa cứ phải bảy bát cơm trắng, niêu cá kho, nửa rổ xề rau muống thì khoẻ như ông voi hết…

Hai thủ trưởng của tôi lảng cái nhìn đi đâu đó.

Câu chuyện rời rạc, khó ăn nhập. Toàn chuyện gạo, lúa, bo bo, thời tiết, sức khoẻ họ hàng đôi bên. Họ cứ muốn nói to một điều ấm ức nào đấy mà không tiện. Không thể kết thúc ngay câu chuyện. Nhưng để kéo dài câu chuyện thì lại không biết bám víu vào đâu.

Trong ánh mắt ba người từng trải qua hai cuộc chiến gần suốt cuộc đời, tôi thấy bao nhiêu là sự ngậm ngùi, cam chịu mà sẻ chia thông cảm. Họ vẫn còn giữ được niềm tin vững chắc vào những chân lý thuộc về lẽ công bằng. Tin vào sự thiêng gọi là tình đồng chí.

Người đàn bà nhìn lên di ảnh chồng, tĩnh lặng.

- Ông nhà cháu đã bảo với tôi rằng, ông như cây lúa trổ bông cho hạt rồi. Chỉ còn rạ với rơm. Rạ thì cày ải úp xuống cho đất ruộng thêm tơi nhuần. Rơm thì phơi khô dự trữ cho trâu bò tăng sức cày kéo mùa vụ.

Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển ái ngại.

- Vĩnh Yên còn mênh mông ruộng đất. Sao anh chị không chọn điểm nào bằng phẳng, gần đường, gần chợ sinh hoạt cho tiện sinh hoạt. Đây tuy cao, nhưng là chỗ lò chum vại cũ, xung quanh hãy còn mồ mả, lối vào lầy thụt…Già cả rồi mà anh chị lại chọn chỗ chông gai để ở…

Bà Lê Thị Liên cười hồn hậu.

- Ông Kim Ngọc bảo ruộng đất rồi sẽ quí lắm. Không phải vô cớ ông cha nói tấc đất tấc vàng. Nếu thích lấy chỗ bằng phẳng đông vui thì phải xén vào ruộng đất canh tác. Ông ấy thích có vườn rộng. Mơ sẽ có một vườn táo sum suê. Muốn tự mình thực hiện khoán quản cho mình ngay trên mảnh đất mình khai hoang vỡ rậm…

Dường như hồn Kim Ngọc đã trở về. Nụ cười bỗng rạng trên gương mặt héo khô của cô sơn nữ xứ Tuyên thuở nào. Hào hứng bà bước ra hiên chỉ tay ra mấy phía vườn.

- Trước khi về hưu, ông Kim Ngọc đã nhờ mấy chú bên Xí nghiệp cơ khí Vĩnh Yên rèn nào cuốc bàn, cuốc chim, nào xẻng. Mấy ông già Sán Dìu bạn thân thuở tá điền trong Thanh Lanh mang cho mấy khúc tre đực làm cán.

Tôi và ông ấy, tự khoán mỗi ngày cuốc 4 mét vuông vườn, nhặt sạch sỏi đá, mảnh sành, mảnh vại. Đứa cháu gái con thằng cả cũng theo ông bà ra vườn. Cháu nhỏ nhưng cũng biết gom nhặt mảnh sành, mảnh vại giúp ông giúp bà. Chẳng may, tay cháu bị cứa đứt, máu chảy tóa ngón tay. Cháu cứ giơ lên trời kêu khóc sợ hãi.

Ông Kim Ngọc nhà tôi lấy vạt áo lau sơ qua bùn đất trên ngón tay cháu rồi đưa vào miệng ngậm một lúc rồi mới băng bó. Lúc sau cháu gái hỏi tại sao ông lại ngậm ngón tay đầy những máu. Ông cháu bảo rằng: Cháu là máu thịt của ông bà. Máu của cháu cũng là máu của ông bà. Tay chảy máu ngậm vào miệng mãi cũng hết chảy cháu ạ…

Gió thổi bùng mái tóc pha sương thoát khỏi vành khăn len, xoà kín mặt người đàn bà. Hình như trong khóe mắt bà có nước mắt, nhưng trên môi bà sao tôi lại thấy nụ cười rạng niềm tin.

Câu chuyện tôi nghe bập bõm ngày xưa về khoán trong nông nghiệp và số phận người đảng viên Kim Ngọc, khai sinh ra nó là đề tài lúc rầm rì lúc công khai có ở mỗi tổ đội sản xuất, ở mỗi quán nước chè, quán cà-phê trong suốt mấy chục năm, suốt từ Móng Cái đến mũi Cà Mau.

Và, cho đến thời điểm này, khi người nông dân toàn quốc, đã thừa lúa gạo xuất khẩu, họ dù không biết chữ, hay nghễng ngãng điếc lác còn biết Kim Ngọc là ai, thì dường như vẫn chưa có hồi kết câu chuyện về ông. Người ta đang hồi cố về Kim Ngọc với bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn.

Người ruột thịt xung quanh tôi phần đông là nông dân. Nên ít nhiều tôi thấm hiểu thế nào là sự biết ơn của họ với nhà cải cách Kim Ngọc. Và, chính tự thân tôi cũng muốn một lần chính thức cảm ơn ông, với tư cách là một con người với một con người.

Ông đã làm vợi bớt đi bao nhiêu là gánh nặng trách nhiệm lo toan bất lực của tôi với người thân ở làng ở xóm, vì thóc nghĩa vụ vì chỉ tiêu lợn hơi. Và, những người thân cuả tôi ở xóm ở làng cũng không còn thắc thỏm thương các con cháu ở thành phố ăn gạo hẩm, ăn sắn khô mốc.

Ở mỗi bến tàu bến xe không còn cảnh bà mẹ nông dân còng lưng van xin quản lý thị trường khi mang theo một vài cân chè khô. Những chuyện thật mà ngỡ như không có. Không ngờ phải mất khoảng thời gian tính cho một thế hệ trưởng thành, tôi mới có lý do để trở lại ngôi nhà mà nhà cải cách nông nghiệp Kim Ngọc đã sống mấy tháng cuối đời.

Tham vọng lý giải hiện tượng Kim Ngọc với vô số câu hỏi và nhiệm vụ tự đặt ra, tôi những mong điều đó khiến mình yên lòng. Và, phần nào giúp bạn đọc phác họa chân dung một ngưỡi Cộng sản, dám xác quyết hy sinh sinh mạng chính trị đang thăng tiến vì bát cơm của mỗi người nông dân.

Một người dám nói ngược chân lý chính thống nuôi dưỡng ý chí thích công to, việc lớn và lòng tự hào của cả một quốc gia đang nồng nàn, phăng phăng cuộn chảy, phấn đấu cho thế giới đại đồng.

2. Mối tình đầu của cô sơn nữ

Với cô sơn nữ Lê Thị Liên sinh năm 1921 ở làng Sơn Nam ven sông Lô của huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang thì buổi chiều mùa xuân năm 1943 là buổi chiều định mệnh. Người thiếu nữ, tóc dài da trắng, tính tình bộc trực, thẳng thắn con gái út của hào phú yêu nước Lê Khắc Cần từ ngoài bãi dâu ven sông Lô về nhà, treo cái cuốc lên đầu hồi tường bếp vừa buông quần, bỗng lúng túng.

Một người trai lạ đang đứng trước sân.

Người trai tầm thước, tóc ngắn, vẻ ưu tư, khắc khổ, quần áo nâu sờn mòn, đôi bàn chân trần nứt nẻ, choãi ngón bám chặt lấy mặt sân, tay khoanh trước ngực. Chiếc túi vải chàm đeo chéo hông. Đôi mắt sáng trầm. Anh ta khẽ gật đầu chào. Phong thái đàng hoàng tự chủ, cứ y như anh ta mới là chủ nhà, còn cô là khách. Người con trai ấy chính là Kim Ngọc.

Anh được Việt Minh phân công về vùng Sơn Nam, tổ chức và huấn luyện chính trị và quân sự cho lực lượng cách mạng ở đây. Cô không dám đáp lễ mà chạy ngay vào bếp hỏi mẹ.

- Bầm ơi. Hình như lại có cán bộ Việt Minh đến ở nhà mình.

- Anh Nguộc sẽ ở nhà ta lâu lâu. Con nhớ cơm nước chu đáo. Việc gì cần hỏi thì hãy hỏi, không tò mò. Người lạ thắc mắc thì bảo anh họ ở dưới quê lên tậu trâu chọi…

Vừa lúc ấy, người thanh niên ngó vào khuôn cửa bếp chập chờn ánh lửa, lễ phép.

-Thưa bá, bá cho cháu mượn con dao rựa.

Người thanh niên lặng đến gốc mít cuối vườn, dựng đống củi cảnh, xắn tay làm việc. Củi dài thì anh chặt ngắn. Củi to thì anh chẻ ba, chẻ tư. Đống củi được xếp lại chẳng mấy chốc đã cao ngang thắt lưng. Cả hai mẹ con cô, bỗng như bị thôi miên vì sự thuần thục công việc nhà nông của người thanh niên có tên Nguộc.

Từ bữa đấy, hôm nào không bận đi tuyên truyền, vận động, giác ngộ bà con quanh xóm Sơn Nam tham gia Việt Minh, anh Nguộc lại theo chân cô Liên ra cánh bãi làm cỏ hái dâu. Vốn con nhà khá giả, cô Liên tham gia việc đồng áng như một sự tuỳ hứng thích thì làm, không thích thì chơi.

Cô không quá chú tâm đến việc phải làm cỏ như thế nào, hái dâu như thế nào. Hái dâu cô vít cả ngọn dâu mà tuốt trơ trụi cả lá bánh tẻ lẫn búp non. Cô chạy ngang dọc bãi dâu, bắt cào cào châu chấu. Lá dâu tươi nhựa vương vãi kín lối đi.

Còn anh Nguộc giỏ sau lưng đầy lèn chặt tay, thì giỏ trước ngực cũng tới miệng. Dõi theo Liên chạy nhảy, Nguộc chau mày vẫy vẫy tay.

- Cô Liên lại đây tôi bảo tí.

- Có gì mà bảo tí mới lại bảo nhiều. Anh không thấy em đang bận đây à ?

- Bận cũng bỏ đấy.- Nguộc đã hơi sẵng giọng.- Cô không thể làm ăn tắc trách, cẩu thả như thế này được…

Mồ hôi mướt tóc mai, Liên hớt hơ chạy đến.

- Đây cô mở to mắt mà xem. Cô hái dâu mà như bóp cổ cây dâu thế này thì làm sao nó sống được. Làm sao có đủ lá dâu cho tằm lứa sau đây. Tằm mà chết thì có khác gì cô đốt nhà mình không ? Trông đây này, người ta phải nắm phần thân cứng, ngắt từng chiếc lá bánh tẻ một, hiểu không ?

Liên ngỡ ngàng, nhưng vì ngượng nên cố cãi cùn:

- Ơ hay, cái nhà anh Nguộc này, đây là dâu nhà em, thì em muốn hái thế nào mà chẳng được. Ai khiến anh…

Nguộc nổi nóng, giậm chân.

- Phải, cô không khiến tôi. Tôi tự khiến tôi đấy. Nhưng đã là người nông dân làm ruộng chăn tằm thì phải biết thương biết xót con giống cây của chứ. Như thế thì mới hòng có miếng mà ăn chứ. Cô không biết là bố mẹ, anh em nhà cô đã vất vả bao nhiêu mới dư chút ít đồng tiền bát gạo đóng góp cho Việt Minh không. Của riêng mà cô thịa thế này, thì mai mốt cô làm ăn chung thì sẽ ra sao đây?

Dỗi anh Nguộc, Liên bỏ ra bờ sông Lô nghịch cát. Nhìn theo cô gái, thở dài, Nguộc cúi xuống nhặt hết những lá dâu rơi vãi vào sọt của mình. Ra vẻ thế, nhưng Lê Thị Liên đã thầm cảm mến người cán bộ Việt Minh, giỏi việc huấn luyện quân sự, giảng dạy chính thông thạo, sành sỏi việc nhà nông từ lúc nào không hay.

Mùa kén ươm tơ vàng năm ấy, cô đã khâu bộ quần áo đũi và mua một đôi dép cao-su trắng tặng anh. Còn anh, chép lại những bài học chính trị trên những trang giấy trắng trong vở ghi của cô đầy đủ hơn. Biết cô ưa hình thức, anh Nguộc đã lựa khẩu súng mới nhất dành cho cô luyện tập.

Nương dâu bãi bồi ven sông Lô vào mùa cắm hom mới. Nguộc và Liên tranh thủ cuốc đất đêm trăng, bởi việc rèn luyện chiến thuật quân sự và học tập đã chật kín thời gian ban ngày. Nhưng hồi chiều, anh Nguộc nói nhỏ với cô, rằng, đêm nay có chuyện quan trọng muốn tâm sự. Nhưng trăng đã chếch đầu núi xa, mà anh Nguộc vẫn hì hụi cuốc, không đả động đến chuyện quan trọng kia.

Nhìn mồ hôi thẫm đen, ngực áo, cô linh cảm anh đang có điều khổ tâm, vướng bận. Đã mấy lần anh chống cuốc, ấp ứ định nói. Liên phải ý tứ nhắc khéo.

- Anh Nguộc, anh xem trăng đã gác núi kia kìa.

Người thanh niên bỗng run lên, bổ một nhát cuốc phập xuống lút cán. Xoa hai bàn tay lấm bụi phù sa mờ mờ bốc lên như khói trong ánh trăng.

- Tôi muốn hỏi đồng chí làm vợ. Đồng chí…Liên…Liên thấy thế nào?

Bên tai dường như vẫn còn vang tiếng mẹ cô, nhắc khéo, mươi hôm trước.

- Bầm thấy anh Nguộc là muốn thương yêu con thực lòng. Mà con thì chắc cũng mến nó rồi. Con gái mà lấy nhầm chồng thì …cuộc đời... Nhưng con lựa khéo mà hỏi han gia cảnh nhà người ta xem. Bầm nghe đâu, ở dưới quê anh Nguộc đã có vợ. Nhưng chị ta phản đối anh Nguộc đi theo Việt Minh. Con liệu bề mà dò nguồn suối lạch sông xem thế nào…

Người thiếu nữ miền sơn cước ngõ ngàng. Người thanh niên Việt Minh dập dồn nói trong hơi thở.

- Thú thực, là tôi cũng đã một lần cưới hỏi, nhưng người ta không thể cùng tôi trên con đường tôi đang đi. Nhà người ta đã trả lại lễ chạm hỏi cho nhà tôi rồi. Nhà tôi nghèo, không có bao lăm ruộng đất. Năm anh em trai đều xa làng từ nhỏ làm tá điền khắp các cửa nhà giàu.

Tôi sinh ra là để cho đất đai. Tôi yêu đất đai hơn bao giờ, tôi mê trồng lúa, trồng cây. Tôi đi theo Việt Minh là để kiếm mảnh đất cho mình. Khẩu hiệu của Việt Minh là người cày có ruộng. Mai này đất nước thoát khỏi ách Nhật- Tây, tôi sẽ về trang Sơn Nam ở rể cày ruộng chăn tằm cùng Liên…

Cô hỏi anh về cái họ Kim lạ lùng, thì anh tần ngần cho hay. Họ Kim nhà anh chính là họ Lê. Anh là con cháu nhóm những người trung thành với nhà Lê phản đối Tây Sơn nên đã phải rời kinh thành, mai danh ẩn tích…Lê Thị Liên ngỡ ngàng, thì ra anh Nguộc là người cùng họ. Nhưng họ Lê nhà cô thì lại từ vùng Lập Thạch chuyển cư lên Sơn Nam.

Lê Thị Liên học xong lớp quân chính 3 tháng do đồng chí Song Hào giảng dạy và phụ trách vừa lúc Cách mạng tháng 8 thành công. Trong niềm vui chung, Kim Ngọc và Lê Thị Liên đính hôn. Lễ cưới ở Tân Trào, chủ hôn là đồng chí Hoàng Quốc Việt. Gia đình nhà vợ giết bò, mổ lợn khao cả trang Sơn Nam vì cưới được rể hiền là cán bộ Việt Minh.

Kim Ngọc ở nhà vợ chừng vài tháng, nhưng do công tác đòi hỏi thi thoảng mới đập đểnh đáo qua nhà vợ được mươi tối. Người vợ trẻ Lê Thị Liên cũng bị cuốn theo vào công tác đoàn thể. Vợ chồng mới cưới, nhưng hóa ra vẫn không thể sống chung một nhà. Thi thoảng hai vợ chồng gặp nhau ở đâu đó trên đường công tác. Nhưng cả hai cũng chỉ biết nhìn ngắm nhau suông. Ngủ nhà cơ sở, mỗi người ở mỗi giường.

Thấy con dâu muộn cháu, mẹ chồng đã toan bắt Kim Ngọc lấy vợ khác để có người nối dõi tông đường. Chuyện đó rồi cũng đến tai tổ chức, từ đó bà Liên được bố trí bên cạnh Kim Ngọc vui cùng cái vui, buồn cùng cái buồn để giúp đỡ và chăm sóc người bạn đời, người đồng chí cho đến tận giây phút ông hấp hối trên giường bệnh.

Năm 1947 đứa con trai đầu lòng của họ chào đời trong kháng chiến, tên là Kim Sơn, người con trai thứ là Kim Nam. Tên hai người con trai, mang tên làng Sơn Nam, nơi chứng kiến tình yêu, và tình đồng chí gắn kết hai con người chung vào một số phận đặc biệt.

Từ một cô gái con phú nông giàu có, không phải lo toan miếng cơm manh áo, bây giờ lấy Kim Ngọc, bà Lê Thi Liên bỗng nhiên phải lo toan chăm nuôi các con, kề vai bên người chồng đau yếu luôn luôn. Vậy mà bà đã vượt qua bao nhiêu cam go thử thách không lời ấy, để làm tròn bổn phận, người vợ thủy chung, người đồng chí tận tụy của Kim Ngọc. Đặng để ông không bận lòng, dồn toàn tâm huyết lo việc nước…

Những cây mít, hàng chè lơ thơ cọng tăm ngày xưa. Mít đã sắp thành cây cổ thụ. Hàng chè tươi hái lá đã lực lưỡng vươn cao. Khu đồi hoang phế đã có hàng rào gạch xây quanh.

Vóc dáng khiêm tốn một trang trại trong lòng thành phố Vĩnh Yên.

3. “Ôi, nỗi đau đồng chí...”

Từng ấy năm, tôi đã qua lại phố thị Vĩnh Yên từ thị xã tróc lở lên thành phố Vĩnh Yên náo nức không đếm được lượt. Con đường có vòng vèo thì cũng mười phút xe máy, vậy mà tôi đã không có được nghĩa cử như là hai người thủ trưởng cũ, như là bao nhiêu con người từ nông dân đồng bằng Nam Bộ đến lãnh đạo đất nước, ghé vào ngôi nhà tuềnh toàng thắp lên chút ít tri ơn trong khói hương trầm.

Bà Lê Thị Liên có thể không nhớ tôi là chú lính đói ăn vào ngày xuân năm ấy đã nhận từ bà mấy chiếc kẹo chanh Hải Châu lọt gió thấm đường qua lớp giấy dầu dấp dính lòng tay.

Điềm tĩnh và cả sự chuyển động chậm của tuổi già, bà mời tôi vào nhà. Dường như việc tiếp khách ngày ngày đến thắp hương và ngắm nhìn chân dung Kim Ngọc là việc bình thường với bà. Dù tôi có là ai thì bà cũng không cảm thấy xa lạ.

Nhưng lạ kỳ, bà vẫn nhớ tôi. Bà bảo rằng, bà quên nhiều thứ, nhưng nhiều thứ bà không thể quên. Nhất là hôm ấy là ngày rằm tháng Giêng. Cỏ hãy còn chưa xanh kín mộ Kim Ngọc trên đồi đá ong. Cậu giờ béo tốt rồi, tóc cũng điểm sương hai bên thái dương rồi…

Phòng khách hẹp và dài. Vẫn chiếc ấm giỏ cũ, vẫn bộ ghế kiểu cổ bốn chiếc, bàn vuông mặt đá. Bộ xa-lông giả da được kê thêm gia tăng chỗ ngồi. Bàn thờ Kim Ngọc sơ sài ngày xưa thì đã có tủ thờ. Bức tượng bán thân, đúc đồng, quà tặng của Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc nhân 90 năm ngày sinh Kim Ngọc đặt đằng sau bát hương.

Thần thái bức tượng, ung dung, trầm mặc. Hai bên vai tượng tàn hương trắng xám. Trên tường những bằng khen, huân huy chương, những bức ảnh đen trắng đã tháo dỡ mang đi đâu đó. Lỗ chỗ dấu đinh đó đây trên tường vôi xanh ẩm.

Thấy tôi ngẩn ngơ, bà Lê Thị Liên thở dài.

- Tôi cũng không muốn thay đổi làm gì. Nhưng cái nhà này ngày xưa mua thanh lý Nhà nước bán cho thời bao cấp rệu rã ụp lúc nào không hay. Cây cầu Cần Thơ vững thế mà còn đổ kia mà. Huống hồ nhà đã 30 năm, xây lúc khủng hoảng kinh tế. Mấy hôm nữa sẽ tháo dỡ một phần nhà, nhưng tôi sẽ xây lại nguyên mẫu. Nó sẽ cứng chắc, bền vững để có chỗ thắp hương lâu dài cho ông ấy.

Bà nhấc ấm giỏ rót cốc nước chè xanh, vàng óng màu mật ong.

- Anh uống nước đi. Đây là chè xanh được ông Kim Ngọc trồng từ ngày mới về đây khai phá. Con đường hoa sữa ngoài kia, là cả nhà tôi, các con các cháu phải dốc sức từng tháng, từng năm, mua góp xe trâu, xe công nông đất đá đắp nên lối đi qua lòng ao cũ. Anh có biết vì sao không?

Chẳng là lúc ông nhà tôi còn sống, ông đứng trên sân nhà nhìn lối vào lầy thụt mà ước ao. Sau này nhất định sẽ phải có một con đường thẳng với hàng cây trồng hai bên…

Khu ao thả cá phía cuối vườn cũng vậy. Đó là ý nguyện chưa thành của ông Kim Ngọc. Các con tôi đã tích cóp xây dựng nên. Hy vọng ít nhiều làm mát mẻ linh hồn cha.

Dù không muốn làm bà đau, nhưng tôi không thể không hỏi một câu mà bao nhiêu người đã muốn hỏi bà, nhưng vì lý do nào đó đã không được may mắn như tôi. Vả lại, nếu hôm nay, tôi không hỏi bà thì sẽ chẳng bao giờ có cơ hội.

- Thưa... bác còn nhớ, hôm báo ND đăng bài phê bình khoán hộ của Kim Ngọc. Rồi thì Tỉnh ủy Vĩnh Phú họp gần một tuần để kiểm điểm ông cháu không ạ?

Bà Lê Thị Liên bặm môi, nuốt nước bọt, ái ngại lẫn tự hào nhìn lên bức chân dung đúc đồng của chồng. Mãi một lúc lâu bà mới cười cười.

- Anh hỏi lạ - Bà Liên chỉ tay vào nơi lồng ngực - Nó nằm ở sâu mãi trong này. Đầu tôi có thể quên, nhưng trái tim tôi thì vẫn nhớ…Hôm ấy không khí nặng trĩu, tù đọng. Ông Kim Ngọc trở về nhà ngồi co cả hai chân lên mặt ghế im im giữa nhà không bật điện, ống quần kéo cao quá gối.

Tiếng nõ điếu khoét từ gốc cây sim trên núi Tam Đảo mà người bạn già người Sán Dìu tặng ông ấy, trước khi cả nhà lên Việt Trì, mười lăm hai mươi phút lại rít lên đon đót khoan xoáy vào màng nhĩ. Tôi bảo, ông ơi mời ông xuống bếp ăn cơm. Cơm xếp lâu rồi. Các con đang đợi ông.

Ông ấy chỉ phẩy tay ra hiệu cho tôi đi ra. Ngồi thu lu đến gà gáy lần thứ 4, ông mới ngả lưng một chút. Đài chưa nổi nhạc thể dục đã lại lục ục thuốc lào. Sáng sớm, tôi nhìn khắp gian nhà bã thuốc lào chi chít như ốc sên mới nở. Bó đóm tre ngâm, chặt một tay nén mà không còn một thanh nguyên.

Cả ngày hôm sau, cũng lại kiểm điểm tiếp tục trên hội trường. Bữa trưa ông bỏ cơm hội nghị, về nhà nằm khan. Gần một tuần, ông ấy chỉ uống nước, ăn mấy chiếc bánh bích quy, hút thuốc lào. Những hôm ấy, có đêm ông xuống chuồng lợn cạnh bếp, nấu cám cho lợn ăn.

Chả là, tuy ở tập thể, nhưng hồi đó, nhà tôi vẫn thích chăn nuôi, tăng gia thêm để có chút cải thiện. Con đông mà ông ấy lại không bao giờ nhận biếu xén, hay đề xuất mua thêm, mua nếm gì ngoài những thứ Văn phòng Tỉnh ủy phân cho.

- Sao hở bà, ông Kim Ngọc nấu cám nuôi lợn tăng gia cải thiện cho gia đình?

- Đời nào lại bắt ông ấy làm thế! Tôi xuống bếp xua ông ấy và bảo. Thôi, ông có ngẫm có nghĩ thì lên nhà, ai lại ngồi đun cám thế này, quân tử phải giữ mình chứ.

Gạt than hồng giữa lòng bếp, thả thêm củi khô, ông ấy làm như không có tôi bên cạnh mà chỉ lẩm bẩm: Ôi, nỗi đau đồng chí... Đó là câu nói duy nhất mà tôi nghe được từ miệng ông ấy than van về sự kiện đó…

Bỗng có tiếng nồi chậu xô nhau trong bếp loàng thoàng. Bà Liên vội đứng dậy chậm chạp lần xuống gian bếp, tôi bám theo bà. Hóa ra chỉ có con mèo lục ăn làm đổ mâm bát, trúng chiếc chậu giặt. Mắt tôi bị hút ngay vào chiếc chậu giặt sáng lóa, to lạ lùng, người lớn có thể ngồi gọn lỏn bên trong.

Bà Liên dọn lại mâm bát, đặt chiếc chậu ngay ngắn, cười tươi.

- Đấy, tài sản vật chất ông Kim Ngọc nhà tôi sắm được ngoài một lô lốc những huân huy chương, bằng khen giấy khen thì có mỗi cái chậu này làm đồ dùng cho gia đình. Bao nhiêu lần tôi muốn xin phiếu định mua chiếc chậu nhôm Liên Xô nhưng ông ấy cứ gạt đi, bảo đã mua rồi, nhưng chưa tiện mang về.

Thì ra ông ấy xin được đoạn ống thùng xăng phụ của máy bay Mỹ ném bỏ, mang vào chân núi, nhờ ông bạn người Sán Dìu giỏi nghề rèn, gò chia đôi, mỗi người được một cái chậu. Nó được hơn ba mươi năm rồi mà vẫn cứng cáp, các cháu tôi mùa hè nào cũng tranh nhau tắm trong chậu của ông…

Bà Liên ngồi luôn xuống thềm, chỉ mông lung ra vườn.

- Ngoài kia còn cây vú sữa, ông Kim Ngọc xin cây con mọc ở dưới tán cây vú sữa nhà Bác Hồ. Giờ cũng sắp thành cổ thụ. Đã hơn ba mươi năm có lẻ ông Kim Ngọc nhà tôi nằm xuống…Giàn nhót trụ được mươi năm rồi thì cũng lụi tàn…

Hồi tưởng lại quá khứ, có thể lúc đầu là chỉ để tâm sự với tôi, nhưng sau đó là chuỗi tự sự độc thoại của bà Liên về những ngày cuối cùng chồng bà nằm ở Bệnh viện Việt Xô. Ông bệnh dạ dày đã mổ hai lần, giờ lại bị tắc đường phân. Mổ cho ông những lần trước là giáo sư Tôn Thất Tùng, nhưng lần thứ ba này giáo sư Tôn Thất Tùng đang công tác ở Pháp, người mổ thay là giáo sư Tôn Thất Lang. Ông Đặng Hữu Khiêm, phó ban Tổ chức T.Ư Đảng, vừa là bạn vừa là cấp trên, nắn nắn những ngón tay khô gầy của bạn, hỏi.

- Anh thấy thế nào? Có sợ không ?

Kim Ngọc cười khô héo.

- Sợ làm sao được. Chuyên môn bảo mổ thì cứ mổ thôi.

Tôi cầm bàn tay chồng mà ruột gan cứ thắt lại vì một linh cảm nặng trĩu lồng ngực. Mắt khép hờ, vẻ mặt bình thản hơn, hơi thở đều đặn. Nghẹn ngào, tôi cúi xuống khẽ hỏi.

- Ông ơi, ông có…có muốn nói gì với tôi và các con cháu không... thì ông nói đi…

Nhưng ông nhà tôi cứ nín lặng thiêm thiếp, bình an, trắng toát nằm trên giường đẩy, đang được các thầy thuốc đưa theo hành lang hun hút tiến vào phòng mổ. Tôi cố giữ bàn tay ông ấy trong tay mình thêm một giây lát.

Trước đó mấy hôm, ông ấy còn nháy ông Lê Dân lén kiếm cọng đu đủ nhét trong vạt áo ngực mồi thuốc lào, hút lén bác sỹ. Mùi thuốc lào nồng lên, tôi định cự nự thì ông ấy hít hà khoan khoái: “Ôi khoái quá, sướng quá đi mất chú Dân ạ. Mai lại nhớ mang cọng đu đủ vào nhé!”.

Thế mà lúc này Lê Dân và Đặng Hữu Khiêm đang thì thào trao đổi vẻ nghiêm trọng. Ông Khiêm, liếc nhìn tôi nói khẽ.

- Lát nữa ông Tôn Thất Lang ra khỏi phòng mổ mà tươi tỉnh thì tình hình còn hy vọng. Còn không, thì hiện trạng là 3 phần hy vọng trên 7 phần đen tối…

Nhưng mổ xong, máu vẫn chảy mãi không cầm được. Hôm ấy là 26 tháng 5 năm 1979. Người ta đặt thi hài Kim Ngọc vào hòm thiếc, đưa sang Bệnh viện Việt Xô. Tôi và các cháu muốn ông Kim Ngọc an táng ở Vĩnh Yên, nhưng Tỉnh ủy không đồng ý, lệnh phải đưa lên Việt Trì.

Khi đưa thi hài Kim Ngọc ngang Vĩnh Yên, thì người ta cho xe nghỉ ở khúc quanh Rừng Lim, trước ngã tư tòa nhà Tỉnh ủy bây giờ, để cho các con cháu tạt qua nhà lấy quần áo và đồ đạc.

Tôi vội vàng về nhà lục tủ, chỉ có mấy bộ quần áo bộ đội, mấy bộ pi-gia-ma, đôi giày da sờn mũi, mấy đôi tất thủng.

Tang lễ được tổ chức trọng thể, trong điều kiện lúc bấy giờ. Phải 5 năm sau, ván thiên mộ của ông ấy sập, nấm sụp xuống, năm lần bảy lượt tôi lên xin các ông tỉnh lúc bấy giờ để sửa mộ cho chồng mà không được. Vì lúc đó còn phải xin ý kiến Trung ương…

Một lần nữa, tôi lại xin đưa Kim Ngọc về quê, nhưng các ông tỉnh nói rằng, Kim Ngọc là Bí thư của cả hai tỉnh, Việt Trì hay Vĩnh Yên thì đều là quê hương cả.

Một ngôi mộ xây bề thế ở vị trí trang trọng ngay bên dưới biểu tượng của nghĩa trang. Người phụ trách xây mộ cho Kim Ngọc đã ghé tai tôi nói nhỏ. “Chúng em đã xây hết gần một tấn xi măng đấy chị ạ”. Chẳng biết thực hư, tôi chỉ biết gật đầu cảm ơn.

Mãi đến khi chuyển ông ấy về nghĩa trang Vĩnh Yên cho tiện bề hương khói, gia đình vẫn lo ngày trước xây nhiều xi măng thế rất khó khăn di dời. Nhưng khi vừa đụng cuốc, xẻng vào thì chỉ mỗi bề mặt là có xi măng loáng nhoáng, bên dưới thì toàn gạch bở bục, xếp chồng lên nhau nên cũng dễ làm lắm…

Cái số ông ấy thế, nó long đong lận đận. Mổ dạ dày ba lần. Chôn xuống đào lên cũng ba lần. Bây giờ thì Kim Ngọc, mộ đã ốp đá granít, đúc tượng đồng rồi. Huân chương Độc Lập hạng Nhất cũng đã trao rồi…nhưng…

Bà Lê Thị Liên như vẫn còn điều gì đó bận lòng. Bà đứng dậy thắp cho chồng tuần nhang nữa, sau mới tiếp tục câu chuyện.

- Nhiều vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước về công tác Vĩnh Phúc hoặc đi ngang qua đều vào nhà thắp hương cho Kim Ngọc. Còn các đoàn đại biểu ở các tỉnh, nhất là các tỉnh phía Nam, có nhiều cụ đảng viên lão thành, khi thắp hương cho Kim Ngọc đã ứa nước mắt.

Cách đây mươi năm, tôi ở trong đoàn cán bộ cựu chiến binh về chúc thọ Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Biết tôi là vợ Kim Ngọc, Đại tướng đã kéo tôi ngồi lại gần và nói.

- Nông dân ta no ấm, trước hết là nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ. Nhưng trong quá trình xây dựng đất nước thì chúng ta phải cảm ơn Kim Ngọc, một đảng viên sáng tạo, dám chịu trách nhiệm đến cùng trước nhân dân…

Khi còn đương chức, Chủ tịch nước Trần Đức Lương có vào thăm nhà tôi và tặng một túi quà và một triệu đồng. Tôi cũng đã thành tâm đề nghị Chủ tịch Trần Đức Lương về việc Đảng và Nhà nước cải chính hộ chồng tôi vài ba lời.

Ngày xưa báo N.D đã đăng bài phê phán ông ấy, thì nay cũng nên có đôi lời thưa lại. Cuộc đời đúng, sai là lẽ thường. Ông Kim Ngọc chắc không cần điều ấy, tôi cũng không cần điều ấy. Nhưng tôi nghĩ đến sau này khi tôi mất đi thì cũng nên có một sự rõ ràng minh bạch…

Tiếp lời tôi, ông Chu Văn Rỵ lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc tháp tùng Chủ tịch cũng đề nghị là nên phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho Kim Ngọc…

4. Chiếc đồng hồ và lời dặn của người cha

Ông Kim Nam, người con trai thứ ngồi trò chuyện cùng tôi đằng sau lưng bức tượng đồng Kim Ngọc, trong căn nhà đang đập phá tu sửa, thì nhớ lại những ngày tháng ấy với sắc thái điềm tĩnh, và lặng lẽ.

- Ngày ấy, tôi đang học lớp 7, hệ phổ thông mười năm. Tôi chỉ cảm nhận được rằng bố tôi rất buồn. Nhiều hôm, tôi đi học về chào bố. Bố tôi yên lặng, mắt mở to, thảng thốt, mênh mông. Rõ ràng là tôi đang ở trước mặt bố mà bố không nhận ra. Nhưng tôi biết làm thế nào giúp được bố đây?

Trong lúc ấy đường đường bố là người có quyền hành to nhất tỉnh Vĩnh Phú. Một tỉnh kéo dài từ sân bay Nội Bài đến giáp thị xã Yên Bái. Chẳng lẽ bố tôi đã quên mất tôi?

Mọi khi, tôi đi học về, bao giờ bố cũng bảo tôi mở cặp, cho bố xem bài vở. Tôi đã ra đầu hè ngồi nhìn mãi màu hoàng hôn, nghe muỗi bay. Trong bếp tiếng bát đũa, xoong nồi lách cách. Tiếng mẹ và em gái tôi se sẽ thì thào.

Dường như dòng chảy hồi ức trong người con trai thứ, bỗng tràn dâng. Tôi rụt rè hỏi:

- Bí thư Kim Ngọc có định hướng cho các con mình phải làm gì không? Ví như là kỹ sư nông nghiệp hay kinh tế chẳng hạn…

- Với các con, ông cụ không bao giờ áp đặt. Anh cả Kim Sơn thích máy móc, thì cụ cho đi học cơ khí. Tôi thích súng đạn, giày đinh, quân phục, nên đã tình nguyện đi bộ đội. Tướng Đồng Sĩ Nguyên là chỗ quen biết, nhưng khi tôi vào Trường Sơn ông cụ cũng chẳng một lời thông báo cho bạn, tôi đang là lính của ông. Hôm tôi nhận quyết định nhập ngũ, bố gọi tôi lên ngồi đối diện bàn làm việc trên Văn phòng, hỏi.

- Có chắc chắn là con thích làm bộ đội, trực tiếp chiến đấu?

- Vâng. Con thích ạ.

- Vậy thì con phải chịu trách nhiệm với bản thân con. Và phải hoàn thành nhiệm vụ người lính một cách tốt nhất. Đạo đức của con người và giá trị của con người, chính là nằm ở chỗ phải hoàn thành bổn phận, vai trò, công việc được giao phó, hay tự nguyện gánh vác.

Con có thể thương tật, con có thể hy sinh, nhưng phải trung thực. Một khi con rèn được phẩm cách trung thực, thì con mới có lòng dũng cảm…Đó là cả một hành trình... một hành trình làm người con trai ạ…

Nhìn tôi hồi lâu, rồi ông lặng lẽ tháo chiếc đồng hồ Rô-lếch, quà tặng của Quân khu Việt Bắc, năm ông rời chức vụ Phó Chính ủy Quân khu về làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, đeo vào cườm tay tôi.

- Nó sẽ giúp con trong những phiên gác, những lần hiệp đồng chiến đấu… Hôm nay con thích ăn gì bảo mẹ nấu cho. Ngày mai con đi tập trung, mẹ sẽ đưa. Bố bận đi xuống huyện…

Tôi lặng lẽ quay đi. Tôi cảm giác cái nhìn của bố mãi sau lưng, trước khi bố cúi xuống đọc chồng tài liệu. Suốt những tháng ngày chiến trường, tôi cũng chỉ là anh lính như bao anh lính khác. Cứ mỗi lần nhìn chiếc đồng hồ, là tôi lại nguôi ngoai nỗi nhớ nhà. Tôi hình dung ra ánh mắt của bố đang nhìn. Bao nhiêu năm, tôi gần như đứt liên lạc với gia đình.

Mãi sau, tôi biết, ở nhà dù không nói ra, nhưng cả bố và mẹ đều nghĩ tôi đã hy sinh. Bố đã làm rất nhiều thơ tặng tôi. Nhưng bố chỉ đọc cho mẹ nghe. Đến khi tôi về, thì mẹ mới đưa những bản thảo đó cho tôi đọc. Bố đã gọi tôi thảng thốt là bông hoa thương nhớ của cả nhà. Một bông hoa đi vắng. Một bông hoa chờ ngày đậu quả.

Thật tiếc, không hiểu sao những bài thơ đó lại không còn. Tôi đã làm thất lạc chúng, năm bố tôi ốm đau. Bố làm bài thơ, nhân ngày nhận được lá thư duy nhất tôi gửi từ B2, mẹ tôi thi thoảng bây giờ vẫn đọc: Hôm nay nhận được thư con/Khác nào nắng hạn gặp cơn mưa rào/Bao mùa chinh chiến gian lao/Nhưng con đã lớn đã cao với đời/Mênh mông trái đất vòm trời/ Vừa qua mới chỉ bước đời phải đi/khuyên con giữ trí kiên trì/ta đi đâu phải chỉ vì mình ta/tin vui ta viết vài câu/ gửi người đồng chí bấy lâu xa nhà.…

Nhìn nơi cổ tay ông Kim Nam trống trơn, tôi bỗng chạnh lòng.

- Thế cái đồng hồ hiện nay ở đâu mà không thấy anh đeo?

Kim Nam nhìn lên bức tượng đồng Kim Ngọc, giọng nhỏ khàn.

- Tôi vẫn giữ được chiếc đồng hồ bố cho và mang trở về cùng ngày chiến thắng. Đã mấy lần rơi xuống suối sâu, mấy lần tôi đều lặn xuống tìm lại. Tôi thấy được nó bởi ánh dạ quang le lói trong làn nước đục.

Sau này, chú em tôi thích, tôi đã đưa cho em dùng. Chú ấy ở Sài Gòn, mấy năm đầu chưa quen công việc, chắc là quá khó khăn nên đã không giữ lại được. Tôi biết, nhắn vào tìm cách chuộc lại nhưng không được…

Còn tiếp

Nguyễn Tham Thiện kế

theo tien phong ol

http://www.tienphong.vn/Tim-Kiem/Index.html?keyword=Nh%C3%A0%20c%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch%20Kim%20Ng%E1%BB%8Dc%20-%20cha%20%C4%91%E1%BA%BB%20kho%C3%A1n%2010

Đọc thêm!

Trang