được sưu tầm bởi HXK

đây chỉ là những thông tin về những người mà tôi cho rằng họ giỏi, tôi khâm phục họ, tìm hiểu họ qua cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm cũng như tư tưởng của họ để lại trên thế gian này. cho những con người của thời đại họ sống và cho hậu thế.

Wednesday, June 30, 2010

Mối quan hệ giữa các phạm trù và hệ thống các luận đề giác tính thuần túy trong triết học I.Cantơ


Lê Cộng Sự
Tạp chí Triết học


I. Cantơ (1724-1804)

Trong tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý, nhà triết học nổi tiếng người Đức, I.Cantơ (1724-1804) đã tự nhận mình là người cải cách triết học, vì chính ông đã tạo ra bước ngoặt Côpécníc trong lĩnh vực nhận thức luận bằng cách đặt ngược lại một số vấn đề mà triết học truyền thống tưởng chừng như đã giải quyết một cách trọn vẹn, xong xuôi.

Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày một cách đầy đủ "bước ngoặt Côpécníc" trong triết học của ông, mà chỉ khai thác một vài luận điểm xung quanh vấn đề về mối quan hệ giữa các phạm trù và hệ thống các luận đề giác tính thuần tuý trong việc vận dụng các tri thức tiên nghiệm vào kinh nghiệm. Hay nói cách khác, các phạm trù và hệ thống các luận đề giác tính thuần tuý có vai trò như thế nào trong việc vận dụng các tri thức tiên nghiệm vào kinh nghiệm.

I.Cantơ cho rằng, bên ngoài chúng ta có các sự vật tồn tại khách quan (các vật tự nó - Things in themselves), các sự vật đó tác động lên các giác quan của chúng ta và tạo nên những cảm giác đa dạng. Nhờ năng lực tiên thiên của không gian mà các đối tượng được quy về những hình hài có tính xác định và nhờ năng lực tiên thiên của thời gian mà các ấn tượng, các trạng thái đa dạng đó được sắp xếp theo thứ tự trước sau. Nhờ vậy, chúng ta mới nhận thức được các sự vật, hiện tượng của thế giới. Đương nhiên, theo I.Cantơ, đó là thế giới hiện tượng. Nhưng nhận thức không dừng lại ở giai đoạn cảm tính, mà cần phải tiếp tục trong giai đoạn giác tính. Bởi những biểu tượng mà chủ thể có được trong giai đoạn cảm tính còn mang tính chủ quan, cá thể, trong khi đó, bản chất của nhận thức là đem đến những khái niệm, phạm trù hay tri thức có đặc tính phổ quát và tất yếu. Để đạt được điều đó, cần phải có tư duy dựa trên các khái niệm của giác tính hay các phạm trù.

Các phạm trù, theo cách hiểu của I.Cantơ, là những khái niệm giác tính thuần tuý mà thoạt đầu, chúng được tạo nên nhờ chức năng tổng hợp thuần tuý của giác tính bằng cách thống nhất sự đa dạng của trực quan cảm tính, quy tụ sự đa dạng đó về một mối thống nhất cho các biểu tượng. Chúng có đặc tính phổ quát và tất yếu, vì chúng là những hình thức để con người có thể tư duy, là những điều kiện để con người có thể kinh nghiệm. Và, để kinh nghiệm có thể có được, trước hết phải vận dụng các phạm trù vào kinh nghiệm. Sự vận dụng các phạm trù vào kinh nghiệm được tiến hành bằng các phán đoán tổng hợp, mang tính tiên nghiệm, được thiết lập dựa trên hệ thống các luận đề của giác tính thuần tuý. Đó là những tiên đề của trực quan, những dự đoán của trực giác, những loại suy của kinh nghiệm, những định đề của tư duy kinh nghiệm nói chung. Đây là bốn luận đề liên quan đến kinh nghiệm của con người, chúng được sắp xếp theo trình tự nhận thức từ thấp đến cao. Thoạt đầu là trực quan - hình dung về đối tượng. Tiếp đến là tri giác - tri thức theo nghĩa đúng của nó, vì tri giác bao hàm cả trực quan và khái niệm. Còn kinh nghiệm là mối liên hệ mật thiết giữa nhiều tri giác. Từ những kinh nghiệm đã có, người ta khái quát thành tri thức hay tư duy kinh nghiệm nói chung.

Hệ thống các luận đề này được I.Cantơ thiết lập dựa trên bảng phạm trù, trong đó mỗi hệ luận đề phù hợp với một nhóm phạm trù nhất định. "Bảng phạm trù, I.Cantơ viết, đem đến cho ta sự chỉ dẫn cần thiết nhằm lập bảng các luận đề, bởi lẽ các luận đề của giác tính thuần tuý chính là các nguyên tắc vận dụng khách quan các phạm trù.

Dưới đây, chúng ta lần lượt phân tích từng luận đề cụ thể, qua đó vạch ra mối quan hệ giữa các luận đề với các phạm trù của giác tính.

Những tiên đề của trực quan. Nguyên tắc chung của tiên đề này được I.Cantơ chỉ ra như sau: Xét về phương diện trực quan (hình thức của hiện tượng), mọi hiện tượng đều có khối lượng hay là đại lượng có tính quảng độ.

Theo I.Cantơ, đây là nguyên tắc chung, là điều kiện có tính tiên nghiệm để ta có thể trực quan về mặt hình thức của đối tượng. Điều này có nghĩa là, khi ta nhìn nhận hay hình dung một sự vật nào đó, nhất thiết phải hình dung nó trong không gian với một quảng độ nhất định. Với cái toàn vẹn, quảng độ này của sự vật được cấu thành từ những phần tử có tính gián đoạn, tách biệt trong không gian. Ví dụ, ta có thể hình dung một đường thẳng nhờ sự nối tiếp liên tục của các đoạn thẳng từ một điểm xác định, nghĩa là từ điểm xác định đó, chúng ta kẻ được một đường thẳng.

Thực ra, luận đề trên của I.Cantơ đối với lịch sử khoa học và triết học không có gì mới, vì nó đã được Niutơn và Đêcáctơ đề cập tới vấn đề đáng nói ở đây là, I.Cantơ đã xây dựng luận đề này dựa trên nhóm phạm trù số lượng (nhất thể, đa thể, toàn thể) và coi nó như một dạng tiên đề có tính tiên nghiệm làm nguyên tắc chung cho mọi kinh nghiệm và trực quan cảm tính. Cũng dựa trên luận đề đó, giác tính thiết lập các phán đoán tống hợp, chủ yếu là các dạng tiên đề hình học, nhằm vận dụng các phạm trù vào kinh nghiệm. Theo I.Cantơ, nhờ các tiên đề mà “toán học thuần tuý trở thành khoa học có tính chất phụ lục đối với các đối tượng kinh nghiệm, nếu thiếu các tiên đề toán học thì bản thân kinh nghiệm sẽ trở nên không rõ ràng và chúng ta sẽ gặp không ít mâu thuẫn trong hiện thực".

Trong quan niệm của I.Cantơ, luận đề này là luận đề liên quan đến hai hình thức trực quan thuần tuý - không gian và thời gian, đồng thời phản ánh mặt lượng của đối tượng. Nhưng nhận thức không dừng lại ở mặt lượng của đối tượng, mà phải đi sâu vào yếu tố chất. Vấn đề này được I.Cantơ giải quyết trong luận đề thứ hai.

Những tiên đoán của tri giác. Dựa vào nhóm phạm trù chất (hiện thực, phủ định, hạn định), I.Cantơ đưa ra nguyên tắc chung về những tiên đoán của tri giác: “Trong tất cả các hiện tượng, hiện thực (đối tượng của cảm giác) là một đại lượng có tính cường độ hay một độ".

Với luận đề này, I.Cantơ muốn chứng minh rằng, tuy chưa tri giác về đối tượng, nhưng chúng ta có thể đoán được, dù đối tượng đó có nhỏ bé, yếu ớt đến đâu thì nó cũng đem đến cho chúng ta một mức độ cảm nhận nhất định. Ví dụ, màu đỏ dù có nhạt đến bao nhiêu thì cũng có một độ đỏ nhất định. Tương tự như vậy, chúng ta có thể nói về nhiệt độ, về trọng lượng.

Tại sao I.Cantơ lại đặt vấn đề như vậy? Bởi, theo ông, các hiện tượng với tư cách đối tượng của tri giác, ngoài hình thức trực quan thuần tuý (không gian và thời gian), còn có tính vật chất. Tính vật chất này quy định sự tồn tại của khách thể hay là nội dung của cảm giác. Cảm giác là thước đo của hiện thực, là một đại lượng có tính cường độ, nó có một mức độ nhất định, nghĩa là = 1, và nếu cảm giác = 0 thì sẽ không có hiện thực. Từ sự phân tích đó, I.Cantơ đi đến kết luận rằng, "mọi cảm giác có được nhờ hậu nghiệm, nhưng nếu chúng có một độ nào đó thì đó lại là một nguyên tắc có tính tiên nghiệm". Đây chính là " tiên đoán tri giác" của chúng ta, nó làm cơ sở cho sự thiết lập các phán đoán tổng hợp trong khoa học tự nhiên.

Như vậy, trong quan niệm của I.Cantơ, cả hai luận đề giác tính này đều có liên quan đến trực quan (hình thức của hiện tượng) và cảm giác (vật chất của hiện tượng), được thiết lập trên hai nhóm phạm trù lượng và chất. Còn luận đề thứ ba của giác tính được I.Cantơ thiết lập dựa trên nhóm phạm trù quan hệ, phản ánh mối quan hệ giữa các hiện tượng theo kiểu loại suy.

Những loại suy của kinh nghiệm. Về nguyên tắc chung của loại luận đề thứ ba này, I.Cantơ viết: "Kinh nghiệm chỉ có thể có thông qua biểu tượng về mối liên hệ tất yếu của các tri giác".

Không tán đồng với chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa duy cảm trong triết học truyền thống, I.Cantơ cho rằng, tri giác của con người luôn có tính đơn lẻ, rời rạc, các tri giác tồn tại độc lập với nhau. Vậy, làm sao chúng ta có thể có kinh nghiệm? Theo ông, để có kinh nghiệm, cần có biểu tượng về mối liên hệ tất yếu của các tri giác, biểu tượng đó giống như một sợi dây liên kết các tri giác với nhau, tri giác sau với tri giác trước, làm phát sinh giữa chúng mối liên hệ mà nhờ đó, kinh nghiệm được tạo ra. Mối liên hệ tất yếu của các tri giác chỉ tồn tại trong thời gian, vì thời gian là điều kiện và hình thức của trực quan. Thời gian bao hàm ba mô thức: tính trường tồn, tính liên tục và tính tồn tại đồng thời (cùng tồn tại). Tương ứng với ba mô thức đó là ba loại hình kinh nghiệm được tạo thành dựa trên nguyên tắc loại suy. Các loại hình kinh nghiệm có thể là:

1) Kinh nghiệm về tính trường tồn trong thời gian,
2) Kinh nghiệm về tính liên tục trong thời gian,
3) Kinh nghiệm về tính cùng tồn tại trong thời gian.

Nói về tính chất loại suy của kinh nghiệm, I.Cantơ viết: "Mỗi loại suy của kinh nghiệm sẽ là một quy luật mà theo đó , sự thống nhất của kinh nghiệm được đúc kết từ nhiều tri giác. Với tư cách một luận đề, quy luật được áp dụng đối với các hiện tượng như là nguyên tắc điều hành, chứ không phải là nguyên tắc cấu trúc".

Loại suy thứ nhất. Loại suy này được I.Cantơ gọi là luận đề về tính trường tồn của thực thể, hay quy luật bảo tồn thực thể. Về nội dung của quy luật này, I.Cantơ viết: "Trong mọi biến đối của hiện tượng, thực thể không hề thay đổi và số lượng của nó trong tự nhiên cũng không tăng, không giảm".

Lấy phạm trù thực thề làm cơ sở, I.Cantơ rằng, trong một thực thể luôn có những tính xác định hay phương thức tồn tại đặc biệt cửa nó đó là tuỳ thể. Tính xác định hay tuỳ thể của thực thể luôn có tính hiện thực, vì chúng liên quan đến sự tồn tại của thực thể. Từ sự lý giải này, I.Cantơ giải thích khái niệm biến đổi. Sự biến đổi, theo ông, chính là một phương thức tồn tại này kế tiếp một phương thức tồn tại khác của cùng một đối tượng. Do chính là sự kế tiếp giữa các tuỳ thể của cùng một thực thể. Cho nên, các biến đổi (tức thực thể) là cái được giữ nguyên, còn sự biến đổi chỉ là sự thay thế các tính xác định, tức là các tuỳ thể mà thôi.

Nói một cách ngắn gọn, đối với I.Cantơ, sự biến đổi chỉ là sự thay thế các tuỳ thể, tức là các phương thức tồn tại của thực thể mà thôi, còn thực thể với tính cách là một bản thể (Substratum) của thời gian thì có tính trường tồn vĩnh cửu, không hề thay đổi và số lượng của nó trong tự nhiên cũng không tăng, không giảm.

Loại suy thứ hai của kinh nghiệm là luận đề về tính kế tiếp thời gian theo quy luật nhân quả hay còn gọi là quy luật nhân quả. Về nội dung cơ bản của quy luật này, I.Cantơ viết: "Mọi biến đổi, đều diễn ra theo quy luật của mối liên hệ nhân quả".

Về quy luật này, Cantơ luận giải rằng, các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại một cách đa dạng mà cùng một lúc tri giác không thề bao quát hết được. Khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng hay sự kiện này thì có thể, hiện tượng hay sự kiện khác đã xảy ra một cách hoàn tất hoặc đã biến mất. Tri giác không thể cho ta một trật tự thời gian xác định rằng, hiện tượng nào diễn ra trước, hiện tượng nào diễn ra sau, hiện tượng nào thứ sinh, phái sinh… Như thế, để cho mối quan hệ giữa hai hiện tượng có thể xác định được một cách tất yếu theo trật tự thời gian (trước sau, kế tiếp) thì chúng ta cần phải có một khái niệm mang tính tất yếu của sự thống nhất tổng hợp. Khái niệm đó chỉ có thể là khái niệm giác tính thuần tuý đó chính là khái niệm quan hệ nhân quả. Tứ mối quan hệ nhân quả đó, chúng ta có thể xác định cái nào diễn ra trước (nguyên nhân), cái nào quyết định cái diễn ra sau (kết quả), chứ không phải dựa vào trí tưởng tượng hay tri giác cảm tính.

Theo I.Cantơ, quy luật nhân quả là phương thức vận dụng phạm trù nhân quả vào kinh nghiệm, là nguyên tắc tiên thiên để chúng ta có thể có được kinh nghiệm về mối quan hệ giữa các hiện tượng diễn ra trước (nguyên nhân) và các hiện tượng phát sinh sau đó (kết quả) và có như thế, chúng ta mới nhận thức được các đôi tượng một cách có trật tự theo tính kế tiếp của thời gian. Đương nhiên, các đối tượng nói ở đây cũng là các đối tượng của thế giới hiện tượng.

Loại suy thứ ba của kinh nghiệm với tên gọi luận đề về sự cùng tồn tại theo quy luật tương tác, hay còn gọi là quy luật tương tác giữa các chực thể. Nội dung của quy luật này là: "Mọi thực thể được tri giác trong không gian với tư cách những tồn tại đồng thời gian luôn nằm trong sự tác động qua lại lẫn nhau”.

Quy luật tương tác này được I.Cantơ xây dựng dựa trên phạm trù tương tác thuộc nhóm phạm trù quan hệ. Quy luật này chính là phương thức vận dụng phạm trù sự tương tác lẫn nhau vào kinh nghiệm. Nó là quy luật có ý nghĩa quan trọng, xét từ phương điện động lực học.

Theo I.Cantơ, các sự vật được coi là cùng tồn tại khi chúng ta có thề lần lượt tri giác hết sự vật này rồi chuyển sang tri giác sự vật khác và ngược lại. Chẳng hạn, ban đầu chúng ta có thể tri giác mặt trăng, sau đó đến mặt đất và ngược lại. Song thế giới hiện tượng là vô cùng phức tạp và đa dạng. Để khẳng định rằng, sự lần lượt chuyển từ tri giác về sự vật này sang tri giác về sự vật khác có cơ sở trong hiện thực khách quan thì cần có một khái niệm giác tính về sự lần lượt xác định của các sự vật cùng tồn tại đồng thời bên cạnh nhau. Nhưng quan hệ giữa các thực thể là quan hệ có tính tương tác lẫn nhau một cách xác định, nên sự cùng tồn tại giữa các thực thể trong không gian có thể nhận thức được trong kinh nghiệm bằng cách giả định giữa chúng có sự tương tác lẫn nhau. Nói một cách ngắn gọn, sự tương tác lẫn nhau giữa các thực thể là điều kiện để chúng ta có thể kinh nghiệm về các đối tượng cùng tồn tại trong không gian đây chính là quy luật có tính phố quát và tất yếu trong động lực học.

Tóm lại, ba kiểu loại suy của kinh nghiệm mà I.Cantơ đã đưa ra chính "là những nguyên tắc xác định sự tồn tại của các hiện tượng trong thời gian phù hợp với ba phương thức của nó". Chúng cũng là ba quy luật có tính phổ quát và tất yếu làm cơ sở cho việc hình thành các phán đoán tổng hợp trong khoa học tự nhiên. Các quy luật đó không thuộc về bản thân giới tự nhiên, chúng chỉ là những quy luật của giác tính con người. Đối với giác tính, các quy luật ấy là những quy luật tiên thiên cao nhất, liên kết tất cả những gì mà giác tính có thể vươn tới được. Các quy luật đó đồng thời là những quy luật chi phối nhận thức của con người theo nghĩa "pháp lực tối cao của giới tự nhiên phải được tìm trong chính giác tính của con người".

Vậy trong quan niệm của I.Cantơ, các phạm trù thuộc nhóm phạm trù tình thái có quan hệ gì với kinh nghiệm, hay trong trường hợp nào thì kinh nghiệm có thể có và ngẫu nhiên). Giải quyết vấn đề này, I.Cantơ đưa ra luận đề thứ 4.

Luận đề thứ tư được I.Cantơ gọi là các định đề của tư duy kinh nghiệm nói chung - đó là ba định đề cơ bản hình thành trên ba phạm trù của nhóm phạm trù tình thái.

Định đề thứ nhất: "Cái gì phù hợp với những điều kiện hình thức của kinh nghiệm (xét từ góc độ trực quan và khái niệm) thì có thể có".

Với định đề này, I.Cantơ muốn giải thích một cách tiên nghiệm về nhưng hiện tượng có thể có hoặc không thể có trong kinh nghiệm. Theo ông, những hiện tượng nào có đử điều kiện hình thức trực quan và khái niệm, nghĩa là ta có thể hình dung được bằng khái niệm (giác tính) và có thể trực quan được bằng giác quan (cảm tính) thì được coi là có thể có. Còn những hiện tượng nào có thể hình dung được bằng khái niệm nhưng không thể hình dung được bằng trực quan thì không thế có trong hiện thực. Chẳng hạn, khái niệm hình được tạo nên bởi hai đường thẳng cắt nhau. Một hình như vậy có thể hình dung được bằng khái niệm, nhưng trong thực tế, một hình như vậy là không thể có, bởi theo kinh nghiệm, điều kiện đó không đủ để thiết lập một hình hình học.

Định đề thứ hai: "Cái gì thích ứng với điều kiện vật chất của kinh nghiệm (của cảm giác) thì cái đó tồn tại hiện thực". Nếu ở định đề thứ nhất, đối tượng kinh nghiệm chỉ có liên quan đến điều kiện hình thức của khái niệm và trực quan thì ở định đề thử hai này, tri thức kinh nghiệm đòi hỏi điều kiện vật chất của kinh nghiệm, của cảm giác. Theo định đề này, để nhận thức được sự tồn tại hay không tồn tại của một hiện tượng nào đó thì phải dựa vào cảm giác, bới cảm giác là điều kiện chất thể (vật chất) của kinh nghiệm. Còn nếu như chúng ta không có cảm giác về đối tượng, tức đối tượng không phù hợp với điều kiện vật chất của kinh nghiệm, thì đối tượng đó coi như không tồn tại. Từ quan niệm này, I.Cantơ đã phê phán cả chủ nghĩa duy tâm hoài nghi của Đêcáctơ lẫn chủ nghĩa duy tâm giáo điều của Béccơly.

Định đề chứ ba: "Cái gì mà mối liên hệ của nó với hiện thực được xác định theo nhưng điều kiện phổ quát của kinh nghiệm thì cái đó tồn tại một cách tất yếu. Nói cách khác, tất yếu là cái tồn tại đồng thời trong khái niệm, trong trực quan và trong cảm giác. Cái tất yếu thỏa mãn những điều kiện hình thức và vật chất của kinh nghiệm là sự thống nhất giữa khả năng và hiện thực.

Theo I.Cantơ, tính tất yếu chỉ được nhận thức trong mối liên hệ với sự vật tri giác theo quy luật chung của kinh nghiệm. Nhưng tính tất yếu ở đây chỉ là tính tất yếu của các hiện tượng theo quy luật nhân quả nó "phù hợp với mệnh đề có tính tiên thiên là: mọi hiện tượng xảy ra đều có nguyên nhân của nó". Nghĩa là, mọi cái xảy ra đều có thể giả định một cách tất yếu. Đó cũng là luận đề có tính phổ biến trong mọi sự biến đổi của thế giới mà thậm chí, thiếu nó thì tự nhiên cũng không thể tồn tại được. Bởi vậy, I.Cantơ khẳng định, các mệnh đề "không một cái gì xảy ra một cách mù quáng, ngẫu nhiên" và "tính tất yếu trong tự nhiên không bao giờ là mù quáng mà luôn có nguyên nhân tất yếu của nó" là quy luật của giác tính được vận dụng một cách tiên thiên vào tự nhiên. Chúng là cơ sở cho chúng ta nhận thức mọi sự biến đổi của các hiện tượng diễn ra trong tự nhiên".

Những điều đã phân tích trên đã cho chúng ta thấy quan niệm của I.Cantơ về nhận thức nói chung, về phạm trù nói riêng. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm chủ quan tiên nghiệm, I.Cantơ cho rằng, nhận thức của con người không xuất phát từ kinh nghiệm, từ trực quan cảm tính, mà xuất phát từ giác tính. Công cụ nhận thức chủ yếu của con người là các phạm trù giác tính thuần tuý. Trên cơ sở các phạm trù đó, giác tính thiết lập hệ thống các luận đề cơ bản của mình và thông qua đó, nó kiến tạo các phán đoán tổng hợp mang tính tiên nghiệm. Đến lượt mình, các phán đoán tổng hợp này được vận dụng vào kinh nghiệm, tạo nên các tri thức khoa học mang đặc tính phổ quát và tất yếu (có giá trị khách quan).

Quan niệm này của I.Cantơ về mối quan hệ giữa các phạm trù và hệ thống các luận đề giác tính có ý nghĩa quan trọng về mặt nhận thức và lý thuyết sáng tạo khoa học. Với nó, I.Cantơ được coi là người đầu tiên trong lịch sử đưa ra hệ thống các phạm trù tương đối đầy đủ, trên cơ sở đó thiết lập một hệ thống các luận đề của giác tính làm nền tảng cho mọi tri thức khoa học. ông cũng được coi là người đầu tiên đặt vấn đề về giá trị khách quan hay đặc tính phổ quát và tất yếu của tri thức khoa học nói chung, các phạm trù nói riêng. Tuy nhiên, nếu lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng làm hệ quy chiếu để nhìn nhận, chúng ta thấy vẫn còn nhiều vấn đề cần phải tranh luận. Bởi vậy, theo chúng tôi phải có nhiều công trình chuyên sâu hơn nữa về triết học lý luận của I.Cantơ, lúc đó chúng ta sẽ có thêm cơ sở khoa học để thẩm định hệ thống triết học vốn đầy mâu thuẫn và gây nhiều tranh luận của nhà triết học người Đức tài ba này.

Đọc thêm!

Immanuel Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người

Hồ Sĩ Quý

Mặc dù ở giai đoạn tiền phê phán (trước 1770), I. Kant đã xuất hiện như một học giả lỗi lạc trong các lĩnh vực thiên văn học, địa chất học, vật lý học, v.v..., song về triết học, mà trong đó có nhân học triết học, thì phải tới giai đoạn sau - giai đoạn thường được gọi là phê phán, I. Kant mới xuất hiện như là một nhân vật "khổng lồ". Với ba tác phẩm có tựa đề "phê phán"... ("Phê phán lý tính thuần tuý" - 1781, "Phê phán lý tính thực tiễn" - 1788, và "phê phán năng lực phán đoán" - 1790), triết học I. Kant - một kiểu triết học có tư duy độc đáo trong văn hoá Tây Âu, đã trở thành điểm khởi đầu của một dòng triết học ảnh hưởng to lớn đến lịch sử văn hoá nhân loại - triết học cổ điển Đức.

Và, I. Kant là thuỷ tổ của dòng triết học này.

Khi nghiên cứu kho tàng tư tưởng đồ sộ của I. Kant, người ta đã nhận thấy, gần như ở tất cả các lĩnh vực thuộc phạm vi mà ông đã từng quan tâm, I. Kant đều để lại những di sản quý giá mà đến nay hậu thế vẫn tiếp tục khai thác. Chẳng những thế, cũng gần như ở tất cả các lĩnh vực vực đó, I. Kant đều có những phát kiến tầm cỡ mở đường cho sự phát triển tiếp theo của khoa học. Trong lĩnh vực triết học, đó là triết học phê phán với học thuyết về vật tự nó, về các hình thức tiên thiên của nhận thức, về tính khách quan của tri thức…

Trong lĩnh vực đạo đức học, đó là học thuyết về đạo đức học tiên nghiệm với hệ thống các phạm trù đạo đức tiên nghiệm. Trong lĩnh vực tâm lý học, đó là học thuyết về cái tôi đang tư duy, về sự thống nhất siêu nghiệm của tri giác… Trong lĩnh vực thiên văn học, đó là giả thuyết Kant-Laplace về nguồn gốc vũ trụ, một giả thuyết rất gần với quan niệm về vụ nổ Bigbang sau này, v.v… Điều thú vị là, logic trong sáng tạo của I. Kant ở tất cả các lĩnh vực đó đều bắt nguồn từ việc phê phán cách tiếp cận giáo điều đương thời, chỉ ra sự mâu thuẫn giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm trong nhận thức truyền thống; từ đó, I. Kant triển khai quan niệm của mình về triết học phê phán, về nhận thức tiên nghiệm. Cuối cùng, mọi bàn luận đều được lý giải theo quỹ đạo của vấn đề con người và nhận thức con người. Con người với tất cả những khía cạnh phong phú của nó, từ tồn tại sinh học đến ý chí tự do, từ lý tính thuần túy đến lý tính thực tiễn, từ logic tiên thiên đến đạo đức tiên nghiệm, từ cá nhân hữu hạn đến tộc loại siêu cá nhân… - tất cả đều được mổ xẻ ở mức độ rất sâu và thấm đượm tinh thần nhân đạo. (Dĩ nhiên, theo cách của I. Kant). Với I. Kant, con người, đặc biệt con người nhân loại đã chiếm một khối lượng đáng kể trong các luận bàn của ông. "ý niệm nhân loại", theo I. Kant, cái đã bị đánh mất ở nhiều người, phải một lần nữa trở nên thiêng liêng đối với con người - "Tuyên bố vừa kỳ lạ vừa chói tai" này không phải được phát đi từ thế kỷ XX, mà từ Immanuel Kant . Nhưng có lẽ đó vẫn chưa phải là điều thú vị nhất. Khi nghiên cứu I. Kant, với chúng tôi, điều thú vị nhất là vai trò của I. Kant đối với ngành nhân học (anthropology).

Thời gian gần đây, khi nhân học được chú ý như một khoa học hiện đại (và có phần thời thượng nữa) về con người, các nhà nghiên cứu nhân học mới giật mình nhận ra rằng, mặc dù vẫn coi M. Scheler là ông tổ của nhân học, song từ rất sớm trước M. Scheler, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học độc lập . I. Kant coi nhân học là một ngành có đối tượng riêng, có phương thức nghiên cứu riêng, phương thức vượt ra khỏi khuôn khổ của các phương thức nhận thức đã biết. Cũng chính là từ triết học phê phán, khi phân loại các vấn đề nhận thức cơ bản mà con người buộc phải giải đáp, I. Kant đã đi đến khẳng định vị trí của nhân học, ngành khoa học phải trả lời câu hỏi muôn thuở - con người là gì. Và, không biết lúc đó I. Kant có hình dung nhân học lại phát triển một cách mạnh mẽ và thu hút sự quan tâm của con người đến như hiện nay hay không.

1. Sự ra đời của triết học phê phán

Thực ra, không phải chỉ vì các tác phẩm cơ bản của I. Kant ở giai đoạn thứ hai trong cuộc đời sáng tạo của ông có tựa đề là "phê phán" mà giai đoạn này được gọi là giai đoạn phê phán. (Đây là điểm chưa thật chính xác mà một số tài liệu viết về I. Kantơ hiện vẫn còn lý giải như thế). Vấn đề là ở chỗ, triết học I. Kant mang tinh thần phê phán hết sức rõ rệt. I. Kant đã phê phán một cách trực diện và không thương tiếc toàn bộ "linh hồn" của triết học tiền bối, bao gồm cả triết học kinh nghiệm luận của J. Loke, G. Berkeley, D. Hume và cả triết học duy lý của R. Descartes, B. Spinoza, G. Leibniz. Sự phê phán của ông được dựa vào một hệ thống tư tưởng riêng biệt và hết sức độc đáo. Hơn thế nữa, sự phê phán đó cũng phải coi là thật sự có hiệu quả, nếu so với những phê phán đã từng tồn tại trong lịch sử triết học.

Như đã biết, trước I. Kant, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm thống trị trong triết học. I. Kant nhìn thấy rất rõ những điểm hợp lý trong các triết học đó, song ông còn thấy rõ hơn tính chất giáo điều của triết học duy lý và tính chất hoài nghi thiếu cơ sở trong triết học theo kinh nghiệm luận. Những hạn chế này, theo I. Kant, đã trở thành căn bệnh "trầm kha" trong lĩnh vực tư tưởng ở thời đại của ông, làm cho triết học lúc đó rơi vào tình trạng phiến diện và què quặt. Trước thực trạng ấy, I. Kant đặt cho mình nhiệm vụ phân tích có phê phán năng lực nhận thức của con người, giải phóng khỏi nhận thức luận cách tiếp cận đang thống trị lúc đó, mà theo I. Kant là cách tiếp cận giáo điều. Với chủ trương xây dựng một triết học mới thông qua con đường phê phán bằng vũ khí mới của sự phê phán, ở triết học I. Kant đã nảy sinh một cách tiếp cận riêng mà ít lâu sau người ta gọi là cách tiếp cận phê phán. Cũng chính vì thế mà triết học I. Kant còn được gọi là triết học phê phán (Critical philosophy). Đây chính là một nét độc đáo của triết học I. Kant; bởi lẽ, triết học nào cũng ít nhiều sử dụng vũ khí phê phán, nhưng phê phán được nâng thành một phương thức xây dựng tư tưởng, được hệ thống hóa thành một cách tiếp cận riêng thì chỉ có ở I. Kant.

Nguyên tắc cơ bản của cách tiếp cận phê phán và cũng là của toàn bộ triết học phê phán đã được I. Kant nêu trong phần mở đầu xuất bản lần thứ hai tác phẩm "Phê phán lý tính thuần tuý" (The Critique of Pure Reason). I. Kant viết: "Cho đến nay, người ta thường cho rằng hiểu biết của ta cần phải phù hợp với đối tượng. Tuy nhiên, mọi cố gắng thông qua khái niệm để hiểu biết một cái gì đó tiên thiên về đối tượng đều đã kết thúc một cách không thành công. Bởi vì, tri thức của chúng ta về đối tượng đã không được mở rộng. Do đó, cần phải giải thích: phải chăng chúng ta sẽ không giải quyết được một cách tốt hơn nhiệm vụ của siêu hình học, nếu như ta xuất phát từ giả định rằng, đối tượng cần phải phù hợp với nhận thức của ta. Mà điều này lại đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi về khả năng hiểu biết một cách tiên thiên về đối tượng - tri thức cần phải xác lập về đối tượng một cái gì đó sớm hơn là nó đem lại cho ta" .

Rõ ràng, tính chất duy tâm của nguyên tắc mà I. Kant nêu ra là điều không phải bàn cãi. Chẳng những cách đặt vấn đề của I. Kant là duy tâm, mà hơn thế nữa, I. Kant còn cố tình duy tâm tới mức cực đoan để diễn đạt một điều nan giải có thật trong nhận thức: cô lập quá trình nhận thức ở bất cứ điểm nào của nó, chúng ta cũng đều có thể rơi vào sai lầm; và (theo I. Kant) không có quá trình nhận thức nào bắt đầu từ con số không. Bởi vậy, để nhận thức được đối tượng, phải giả định rằng "đối tượng cần phải phù hợp với nhận thức" chứ không phải ngược lại. Bằng cách đó, tri thức buộc phải "xác lập về đối tượng một cái gì đó" (hình ảnh giả định về đối tượng) trước khi đối tượng được phản ánh trong nhận thức ("sớm hơn là nó đem lại cho ta"). Nói thế mới thấy được rằng, lối nhận thức có trước kinh nghiệm (a priori) này quả là có hạt nhân hợp lý của nó.

Cái lộ ra ở đây là cách đặt vấn đề của I. Kant là hết sức độc đáo. Bởi lẽ, như đã biết, vào thời của I. Kant, hai khuynh hướng cơ bản của triết học Châu Âu (chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa kinh nghiệm) mâu thuẫn gay gắt với nhau và thể hiện ra ở chính mâu thuẫn giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm. I. Kant muốn khám phá thực chất của mâu thuẫn này để chỉ ra nguyên nhân sâu xa của tình trạng phiến diện và giáo điều của triết học đương đại. Trong triết học I. Kant, sự đối lập giữa cái duy lý và cái kinh nghiệm là đối tượng được ông chú tâm giải quyết trong mọi vấn đề, từ nhận thức vũ trụ đến nhận thức con người, từ logic học đến đạo đức học, từ khái niệm tiên thiên đến khái niệm nảy sinh sau kinh nghiệm (a posteriori).

Điều vĩ đại ở I. Kant là ông đã hoàn toàn vượt lên trên và không bị lôi cuốn vào cách giải quyết mâu thuẫn nói trên theo lối tranh cãi kinh viện hoặc thuần túy kinh nghiệm như các nhà triết học đương thời. I. Kant đã bằng chính tư duy phê phán để lập cho mình một hệ thống tư tưởng riêng, với cách hiểu rất dị thường và đúng là có một không hai về các phạm trù: Với I. Kant, không gian, thời gian, nhân quả, các phạm trù logic, các phạm trù đạo đức… hóa ra đều là những "hình thức" có sẵn trong nhận thức, con người sử dụng chúng để làm ra kinh nghiệm chứ không phải chúng được tạo ra từ kinh nghiệm. Vật tự nó (Thing in Itself) là một sáng tạo kiệt xuất của nhận thức loài người thông qua một bộ óc uyên bác cụ thể là Immanuel Kant .

Như chúng ta đã biết, trong triết học Trung cổ và triết học Phục hưng, tâm điểm của hầu hết các luận thuyết triết học là học thuyết về tồn tại. Người ta chú ý đặc biệt đến khía cạnh bản thể luận trong nghiên cứu triết học. Chỉ bắt đầu từ thời kỳ Cận đại, các nhà triết học duy vật Anh, Pháp,... mà tiêu biểu là F. Bacon, R. Descartes, G. Berkeley, D. Hume... mới chuyển trọng tâm của triết học vào những vấn đề nhận thức luận. Tuy vậy, trong số các vấn đề quan trọng của lý luận nhận thức, vấn đề về mối tương quan, sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể nhận thức vẫn chưa được chú ý nhiều trong triết học trước I. Kant. Lúc đó, người ta hướng sự phân tích và khám phá vào khách thể của nhận thức.
ở triết học Cận đại thời kỳ trước I. Kant, tính chủ quan trong nhận thức thường được xem như cái ngăn trở, hoặc lực kìm hãm ... đối với khả năng nhận thức của con người trên con đường kiếm tìm chân lý. Người ta cho rằng chính cái chủ quan đã xuyên tạc và làm mờ đi trạng thái hiện thực của thế giới vật thể xung quanh con người (chẳng hạn, nếu ta nhớ lại quan niệm về các Idole trong triết học F. Bacon). I. Kant, cố nhiên cũng tôn trọng những đặc thù của khách thể nhận thức và thấy rõ tác động tiêu cực của tính chủ quan đối với sự nghiên cứu. Nhưng theo I. Kant, đặc thù khách quan của khách thể nhận thức, không chỉ có khả năng quy định cách thức nhận thức mà đồng thời, nó còn có thể kiểm tra năng lực nhận thức của con người. I. Kant không thoả mãn với những quan niệm đã có về tính quy định của khách thể nhận thức. Ông tự đặt ra cho mình nhiệm vụ phải phân biệt các thành phần khách quan với các thành phần chủ quan trong cấu trúc của tri thức ở chính chủ thể theo các trình độ khác nhau của nhận thức. Xuất phát từ đó, một lần nữa I. Kant đã giải thích lại khái niệm chủ thể nhằm tìm ra cách hiểu sâu sắc hơn và cũng độc đáo hơn về nó.
I. Kant đề xuất sự khác nhau giữa hai trình độ của sự nhận thức ở ngay bản thân chủ thể nhận thức: trình độ kinh nghiệm và trình độ siêu nghiệm (transcendent). ở trình độ kinh nghiệm, I. Kant xem xét những đặc thù trong tâm sinh lý cá nhân của con người và sự tác động của chúng đến nhận thức, đến kết quả nhận thức. ở trình độ siêu nghiệm, I. Kant cho rằng nhận thức của con người đã vượt qua sự quy định của những đặc thù cá nhân để hướng tới một bản nguyên siêu cá nhân (transperson - trên cá nhân) nào đó. Với trình độ này, chủ thể nhận thức hiện ra là đại biểu và đại diện cho loài của mình - con người với tính cách là đại biểu của loài. Như vậy, ngay ở mỗi cá nhân, quá trình nhận thức cũng bị quy định và luôn tự phát hướng tới cái siêu nghiệm. Đặc điểm này không phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý riêng biệt của từng cá nhân, mặc dù nó thể hiện ở từng cá nhân; đặc điểm này mang tính khách quan và là biểu hiện của tính tộc loại của con người.

Bằng cách đó, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, I. Kant đã đặt ra vấn đề về tính khách quan ở chủ thể nhận thức.

Trong tác phẩm "Phê phán lý tính thuần tuý", một trong những nội dung cơ bản của triết học lý luận được I. Kant nêu ra là: tri thức khoa học chân chính có khả năng đến đâu? Hay, nói theo cách nói của ông là "các mệnh đề tổng hợp tiên nghiệm xuất hiện như thế nào?" . Với cách đặt vấn đề này, I. Kant muốn tìm xem tư duy khoa học duy lý có những hạn chế của nó hay không? Và để trả lời, I. Kant cụ thể hoá vấn đề này thành ba nội dung riêng biệt: Khả năng của toán học? Khả năng của vật lý học (khoa học tự nhiên)? và, khả năng của siêu hình học (triết học)?

Với ba lĩnh vực tri thức này, I. Kant đã nêu ra ba định hướng quan niệm khác nhau về khả năng của chúng. Ông trình bày quan niệm của mình về tính đặc thù trong khả năng phản ánh, trong cách thức thể hiện thế giới của các khoa học này. I. Kant tin tưởng sâu sắc vào tính chất khoa học của toán học và các khoa học tự nhiên. Ông tìm cách giải thích tính khoa học của các khoa học đó trong sự chi phối và quy định của tư duy kinh nghiệm và của nhận thức ở trình độ kinh nghiệm. Nhưng với siêu hình học, tức là với triết học thì I. Kant đặt câu hỏi liệu siêu hình học nói chung có khả năng tồn tại như là một khoa học hay không? Và, điều thú vị là ông đã trả lời phủ định đối với câu hỏi này. I. Kant viết: "Siêu hình học từ trước tới giờ luôn ở trong tình trạng bấp bênh không đáng tin cậy và mâu thuẫn chỉ bởi một nguyên do là nhiệm vụ (xác định khả năng của tri thức khoa học - HSQ), và thậm chí cả việc tìm ra sự khác biệt giữa các suy lý phân tích và tổng hợp cũng vẫn chưa được ai bàn đến. Sự bền vững hay bấp bênh của siêu hình học là tuỳ thuộc vào sự giải quyết nhiệm vụ này hay ở việc chứng minh rằng trên thực tế, nói chung không thể nào làm rõ được nhiệm vụ trên".

Về tính xác thực của tri thức khoa học, I. Kant cho rằng, xác thực nghĩa là có thể tin cậy được và đó chỉ có thể là tri thức khách quan, tức là mang tính khách quan. Tính khách quan, theo I. Kant, đồng nhất với tính phổ quát và tính tất yếu. Do vậy, tri thức nếu muốn đạt tới sự xác thực thì nó cần phải đạt tới trình độ tất yếu và phổ quát, có giá trị chung mang tính phổ biến (I. Kant đồng nhất cái khách quan với cái có giá trị chung mang tính phổ biến).

Tính khách quan của tri thức, theo I. Kant, được quy định bởi cấu trúc của chủ thể siêu nghiệm, bởi những thuộc tính và phẩm chất siêu cá nhân của chủ thể nhận thức. I. Kant lý giải, mỗi chủ thể đang nhận thức, trong bản tính của mình, luôn vốn có một trình độ nhất định của nhận thức thiên bẩm (tiền kinh nghiệm) thể hiện trong các hình thức thiên bẩm của nhận thức. Các hình thức nhận thức thiên bẩm này chính là trình độ đầu tiên của quá trình nhận thức tiếp cận đến hiện thực (I. Kant đã phân tích rất kỹ về điều này thông qua các khái niệm không gian, thời gian, v.v... - mà ông coi là những hình thức chủ quan, tiền kinh nghiệm của nhận thức cảm tính. I. Kant phân biệt, không gian là hình thức bên ngoài, còn thời gian là hình thức bên trong của kinh nghiệm cảm tính. Các biểu tượng không gian, theo ông, là cơ sở của các tri thức hình học, thời gian - của các tri thức số học và đại số.

Vấn đề là ở chỗ, những tiền đề làm nên tính xác thực của tri thức, theo I. Kant, được tạo ra bởi những hình thức tiền kinh nghiệm của nhận thức cảm tính. Đó là trình độ thứ nhất của nhận thức. Trong quá trình nhận thức, việc hiện thực hoá những tiền đề đó lại được thực hiện nhờ khả năng nhận thức ở trình độ thứ hai - trình độ nhận thức lý tính. ở trình độ này, lý trí - đó chính là tư duy với hệ thống các khái niệm và các phạm trù của mình - đã thực hiện các phán đoán để xây dựng đối tượng nhận thức. Đối tượng không phải là nguồn gốc của tri thức về nó dưới dạng các khái niệm, phạm trù. Mà ngược lại, chính các hình thức của lý trí, tức là các khái niệm và các phạm trù đã tạo nên, đã kiến tạo nên đối tượng của nhận thức. Theo lập luận của I. Kant thì đó chính là cơ sở khiến cho chúng ta có thể đồng ý hay phản đối ý kiến của người khác về đối tượng của sự nhận thức. Hơn thế nữa, đó còn là lý do giải thích tại sao con người lại chỉ có thể hiểu được những gì do nó sáng tạo ra, tức là hiểu được những gì nằm trong phạm vi bao quát của hệ thống phạm trù tiên nghiệm vốn có ở con người. Vượt ra khỏi giới hạn đó, hiện thực thuộc về "thế giới vật tự nó". Với I. Kant, khái niệm và phạm trù sở dĩ mang tính phổ quát và tất yếu, trước hết là vì chúng không phụ thuộc vào ý thức cá nhân (được hình thành bởi kinh nghiệm). Chúng chính là những hình thức siêu nghiệm của nhận thức. Tri thức, vì vậy, theo I. Kant, luôn luôn là cơ sở (là chỗ dựa) cho chính nó. Nó có sẵn dưới dạng các tri thức siêu nghiệm, nó được làm giàu thêm, được phát triển thêm cũng nhờ chính bản thân các tri thức kinh nghiệm và siêu nghiệm. Toàn bộ quá trình đó nằm ngoài và không phụ thuộc vào ý thức cá nhân, cá thể. Theo nghĩa ấy, I. Kant cho rằng tri thức có tính khách quan.

Trong quan niệm của I. Kant, lý tính điều chỉnh tri giác của con người trong suốt quá trình nhận thức, dẫn dắt tri giác vào khuôn khổ của các hình thức tất yếu và phổ quát của nhận thức. Bằng cách đó, lý tính quy định tính khách quan của tri thức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là, cái gì đã tạo ra khả năng đó của lý tính? Tại sao lý tính lại có thể đưa tri giác vào các hình thức tiên nghiệm như vậy? Và, cuối cùng thì cái gì đã gắn kết các phạm trù và các khái niệm vào một chỉnh thể trong hiện thực? I. Kant đã trả lời các câu hỏi này theo quan điểm hết sức nhất quán của riêng mình: tất cả những thao tác đó là do đặc thù của chủ thể quy định. Theo I. Kant, cơ sở sâu xa tạo nên sự thống nhất trong nhận thức luận, mà nếu thiếu sự thống nhất đó thì lý tính không thể thực hiện được chức năng của nó - đó là hành vi tự nhận thức của chủ thể: cái tôi đang tư duy. I. Kant gọi hành vi này là sự thống nhất siêu nghiệm của tri giác hay, sự kết hợp của các tri giác nằm ở ngoài giới hạn của kinh nghiệm.

Như vậy, lý tính, theo I. Kant, cũng là khả năng của chủ thể nhưng ở trình độ rất cao. Khả năng này quy định và điều khiển mọi hoạt động tư duy của con người, thậm chí còn đặt ra mục đích nhận thức cho con người. Còn tư tưởng, trong quan niệm của I. Kant, đó là bản chất siêu cảm giác của sự tồn tại hiện thực của lý tính. Trong nhận thức, dạng sơ đẳng của tư tưởng được hiện hình bằng những quan niệm về mục đích, về nhiệm vụ mà nhận thức của ta tự đặt cho nó và hướng tới nó. Thông qua tư tưởng, lý tính thực hiện chức năng điều chỉnh đối với hoạt động nhận thức và đánh thức chủ thể vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm, vươn tới tri thức tuyệt đối.

Điều cần suy nghĩ ở đây là, có lẽ trong tâm tưởng sâu xa của mình, I. Kant hoàn toàn không hề đánh giá thấp khả năng nhận thức của con người, mặc dù ông cho rằng các khái niệm và các phạm trù, tức là những hình thức của tư duy không có khả năng làm cho chủ thể vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm. Về hình thức thì quan niệm này dường như hạ thấp sức mạnh của tư duy con người, nhưng về thực chất thì quan niệm này lại cho phép nhìn thẳng vào những nan giải to lớn của nhận thức và làm lộ ra mâu thuẫn vốn có thuộc về bản chất của tư duy: trong tư duy, mọi quá trình, mọi vận động… bên ngoài đều được phản ánh dưới dạng các hình thức logic đứng im, chết cứng. Dĩ nhiên, I. Kant là một đại biểu lỗi lạc của chủ nghĩa bất khả tri, nhưng bất khả tri của I. Kant, theo chúng tôi, là bất khả tri ở điểm tận cùng của nhận thức, là bất khả tri của những tham vọng nhận thức và cải tạo không có điểm dừng, không có giới hạn đối với thế giới (những người theo thuyết anthropocentrism ở châu Âu, từ thời cổ đại đến tận ngày nay, vẫn chủ trương coi con người là trung tâm, không thừa nhận giới hạn của sự nhận thức và cải tạo thế giới ). Có thể coi đây cũng là một antinomie thú vị, nếu tính đến những thành tựu vĩ đại trong nhận thức mà chính I. Kant đã đạt được trong cuộc đời khoa học của mình. Một người được xếp vào hàng ít ỏi những cây đại thụ của thuyết bất khả tri, nhà triết học sáng tạo ra khái niệm "vật tự nó" làm cho thuyết bất khả tri bị đẩy đến tận cùng của sự cực đoan, nhưng lại có những phát kiến tầm cỡ "dẫn đường cho nhân loại" cả trong triết học, trong khoa học tự nhiên và trong khoa học về con người.

Bởi thế, những quan niệm của I. Kant về ảo ảnh và về mâu thuẫn mà lý trí mắc phải, về một phương diện nhất định, phải được hiểu là cách thể hiện độc đáo những ước mơ, khao khát của ông hướng tới trình độ sâu sắc hơn nữa của nhận thức con người. Theo chúng tôi, rõ ràng I. Kant quá nhạy cảm và ý thức quá rõ về những giới hạn có thật đối với tư duy và nhận thức. Tuy nhiên, dù chân thành bao nhiêu với việc vạch ra giới hạn nhận thức của con người I. Kant cũng đã từng bị đánh giá là chơi trò "mập mờ nước đôi" (chữ dùng của Albrecht Rau, 1882): dung hoà, thoả hiệp trong nhận thức. Sự phê phán gay gắt (những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) đối với I. Kant từ cả hai phía tả và hữu (duy vật và duy tâm) rõ ràng chẳng phải là chuyện khó hiểu. Hoá ra là, càng muốn vượt lên trên cả hai đường lối triết học bao nhiêu, I. Kant lại càng nhận được kết quả trái với mong muốn của mình bấy nhiêu.

2. Nhân học với khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện

Về lĩnh vực nhận thức con người, khi nghiên cứu triết học I. Kant, người ta cũng có thể thấy rất rõ thái độ trân trọng của ông đối với con người và lý trí con người. Chỉ có điều, là một nhà triết học độc đáo nên việc đề cao con người ở I. Kant cũng rất khác biệt so với các nhà tư tưởng khác. Theo I. Kant, "thế giới vật tự nó" là thế giới dành cho cảm giác.

Do vậy, thế giới đó đóng kín đối với lý tính và đối với khoa học. Tuy thế, theo cách giải thích của I. Kant, đối với "thế giới vật tự nó", con người không phải là tuyệt nhiên không thể vươn tới được. Bởi lẽ, con người, trong quan niệm của I. Kant, luôn sống trong cả hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có thể đạt tới (còn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm).

Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo I. Kant, đó là giới tự nhiên. Còn thế giới mà trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do trong quan niệm của I. Kant là một trạng thái mà ở đó, con người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nguyên nhân tiền định nào đó vốn có trong thế giới có thể cảm giác được. Tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi tính thực tiễn. Lý tính được gọi là thực tiễn, theo I. Kant, là lý tính mà ý nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi con người. Động lực của lý tính thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con người. I. Kant gọi ý chí của con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con người được quy định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên nhân thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về Thượng đế. Theo I. Kant, ý chí của con người được quy định bởi những quy luật, luật lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt ra cho bản thân mình.

Như đã nói ở trên, chính I. Kant chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học độc lập. Trong so sánh với các lĩnh vực tri thức đã được xác lập, I. Kant coi nhân học, mà trước hết là nhân học triết học (philosophical anthropology) là một ngành có đối tượng riêng của mình, có phương thức nghiên cứu riêng của mình. Theo P.S. Gurevich, “nhà nghiên cứu sâu sắc hơn cả trong tư tưởng Nga hiện đại về vấn đề con người” , thì "I. Kant là người đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con người là một thực thể độc nhất vô nhị có khả năng suy tư một cách riêng biệt và độc đáo. Con người - là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện triết học. Để khám phá bí ẩn của con người, cần phải có những công cụ không tầm thường và độc lập. Trong ý nghĩa đó, nhân học triết học đối lập với khu vực tri thức triết học truyền thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức, lịch sử triết học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội, triết học lịch sử”.

Tư tưởng đề cao tính đặc thù của con người, coi con người là một thực thể bí ẩn, độc nhất vô nhị, vượt ra ngoài khả năng khám phá của các công cụ nhận thức truyền thống, kể cả bản thể luận và nhận thức luận, kể cả logic học, đạo đức học và thẩm mỹ học, kể cả triết học tự nhiên, triết học xã hội và triết học lịch sử… là một tư tưởng rất độc đáo, trước I. Kant chưa từng được phát biểu một cách tường minh trong kho tàng tri thức nhân loại (Diogiene và Socrate tuy dường như cũng có nói đến sự bí ẩn của đời sống con người, song các ông hướng tới khám phá sự bí ẩn đó bằng các công cụ duy lý của tư duy trừu tượng). Với I. Kant, tính bí ẩn và độc nhất vô nhị của sự tồn tại người được khẳng định là vượt ra ngoài khuôn khổ của nhận thức duy lý; bởi vậy, nhận thức con người là nhằm luận giải những hiện tượng cá nhân đầy bản sắc, những hành vi và hoạt động phức tạp của con người trong các thiết chế xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử. Tư tưởng này về sau được S. Kierkegaard, F. Dostoievski, M. Heidegger, H. Rickert, M. Scheler, J. Sartre cùng một số nhà triết học hiện sinh khác khai thác và phát triển thêm làm lộ ra rõ hơn tính hợp lý của nó. Với sự ứng dụng ngày càng sâu hơn của thông diễn học (heurmernetics), tư tưởng này càng được thể hiện và được chứng minh là một hướng đi rất chủ yếu trong nhận thức con người với tất cả tính phức tạp của đối tượng này - con người, một thực thể vừa sinh học vừa xã hội, vừa cá nhân vừa tộc loại, vừa vật chất trần tục vừa tinh thần thiêng liêng…
Vấn đề là ở chỗ, với I. Kant, nhận thức con người cũng có nghĩa là nhận thức thế giới; chỉ có thông qua con người, các vấn đề của nhận thức thế giới mới được giải quyết. I. Kant viết: "Mục tiêu của tất cả những thành tựu văn hoá mà con người học được là ứng dụng những tri thức và những kinh nghiệm đã thu nhận được vào thế giới. Nhưng đối tượng quan trọng nhất trong thế giới mà những tri thức này có thể ứng dụng được - đó là con người, chừng nào con người còn là mục đích tự thân cuối cùng" . Khi xác định nhiệm vụ cho triết học, I. Kant tự đặt cho riêng mình 4 câu hỏi mà về sau người ta hiểu đó là 4 nội dung cơ bản của toàn bộ nhận thức con người:

1. Tôi có thể biết gì?
2. Tôi có thể làm gì?
3. Tôi có thể hy vọng gì?
4. Con người là gì?

Theo I. Kant, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ nhất thuộc về nhận thức luận. Câu hỏi thứ hai dành cho đạo đức học. Câu hỏi thứ ba dành cho tôn giáo và thần học, đòi hỏi tôn giáo phải cắt nghĩa những hy vọng thực tế và phi thực tế của con người. Và cuối cùng, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ tư thuộc về nhân học - nhân học, mà ngay trong cách đặt vấn đề của I. Kant cũng đã được phân biệt rạch ròi với nhận thức luận, với đạo đức học và với tôn giáo. Rõ ràng, đây là một kiểu phân loại hết sức độc đáo mà trước đó, khoa học, tôn giáo và triết học thường có thái độ loại trừ nhau, không thừa nhận tiếng nói và vị thế của nhau trong đời sống tinh thần con người. Cách phân loại của I. Kant đặt lại vấn đề về ý nghĩa của sự tồn tại người trong chính nhận thức. Hơn thế nữa, I. Kant còn chỉ rõ thực chất của sự nhận thức thế giới nói chung đối với con người, hoá ra lại chính là, nhận thức con người; I. Kant viết: "Về thực chất, toàn bộ điều đó (4 câu hỏi và sứ mệnh trả lời 4 câu hỏi ấy) có thể quy giản về nhân học. Bởi vì, ba vấn đề đầu tiên thuộc về vấn đề cuối cùng".

Kể từ I. Kant, nhân học triết học nói riêng và đặc biệt, các ngành nhân học thực nghiệm khác đã có những bước tiến rất dài trong nhận thức về con người và đời sống con người. Ngày nay, nhắc đến nhân học người ta rất ít nói về I. Kant, nhưng quả thực công lao của ông đối với ngành khoa học này thì khó có thể phủ nhận.

*
* *

Nói tóm lại, với tất cả những gì vừa trình bày ở trên, chúng tôi muốn nói rằng, triết học I. Kant hoàn toàn có thể được coi là điển hình cho triết học của những nét đặc thù và độc đáo. Cố nhiên, nói triết học I. Kant là độc đáo thì cũng cần phải nói thêm là, khi đã ở tầm một nhà triết học của nhân loại, hầu như nhà triết học nào cũng đều có những nét đặc thù và độc đáo trong hệ thống triết thuyết của riêng mình. Tuy vậy, trong lịch sử triết học, khó có nhà triết học nào lại độc đáo và đặc thù đến như I. Kant.

Tính độc đáo của triết học I. Kant, trước hết được thể hiện ở hệ thống tư tưởng của ông. Tuy thế, ngoài hệ thống tư tưởng với các học thuyết về "vật tự nó", về hệ thống các phạm trù logic, hệ thống các phạm trù đạo đức học, về vai trò và vị trí của nhân học, và về bản thân các phạm trù mà chính I. Kant đã xây dựng nên, v.v... triết học I. Kant còn độc đáo ngay cả ở cách đặt vấn đề, cách thức trình bày, và thậm chí cả ở tên gọi các tác phẩm của ông... Sự độc đáo của triết học I. Kant trên thực tế đã từng khiến cho việc xếp loại, đánh giá những tư tưởng của ông trở nên đặc biệt khó khăn.

Để kết thúc bài viết này, chúng tôi muốn nhắc đến một đánh giá mới nhất về I. Kant - đánh giá của Stephen W. Hawking, nhà vật lý học nổi tiếng đương đại. S. Hawking cho rằng I. Kant là người đứng ở đỉnh cao nhất trong số các nhà triết học vĩ đại của nhân loại - những người coi "toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ". S. Hawking phàn nàn: "thế kỷ XIX và XX, khoa học trở nên quá kỹ thuật và quá toán học đối với các nhà triết học nói riêng và nói chung là đối với nhiều người trừ một số ít chuyên gia rất sâu". Điều đó đã làm cho các nhà triết học giới hạn các câu hỏi của mình lại đến mức triết học chỉ còn là "phân tích ngôn ngữ". Và, S. Hawking nhận xét: "thật là một thoái trào lớn khỏi truyền thống lớn lao của triết học từ Aristote đến I. Kant".

Chúng tôi không hoàn toàn tán thành nhận xét của S. Hawking. Song, những đánh giá của ông về I. Kant thì lại rất đáng phải suy nghĩ.


Đọc thêm!

Immanuel Kant

Immanuel Kant, đọc là Kantơ[1] (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Königsberg; mất ngày 12 tháng 2 năm 1804 tại Königsberg) được xem là triết gia quan trọng nhất của nước Đức, hơn nữa là triết gia lớn nhất của thời kỳ cận đại (Neuzeit), của nền văn hóa tân tiến và của nhiều lĩnh vực khoa học nhân văn khác. Sự nghiệp triết học của ông được biết đến qua hai giai đoạn: "tiền phê phán" và sau năm 1770 là "phê phán".[1] Học thuyết "Triết học siêu nghiệm" (Transzendentalphilosophie) của Kant đã đưa triết học Đức bước vào một kỉ nguyên mới. "Danh tiếng của ông đã đẩy lùi những gì đi trước vào bóng tối và toả sáng lên trên những gì đi sau", như nhận xét của triết sử gia J. Hirschberger.
“ Der Charakter eines wahren Philosophen ist der, daß er nichts thut, als die Natürlichen Kräfte und Fähigkeiten zu exercieren, und zwar durch die nachforschende Untersuchung der Kritik.”—J.Hirschberger

Tạm dịch: "Đặc điểm của một triết gia chân chính là ở chỗ ông ta không làm gì ngoài việc vận dụng sức mạnh và khả năng tự nhiên, cụ thể là qua việc nghiên cứu sự phê phán."

Cuộc đời

Immanuel (tên trên giấy rửa tội là Emanuel) Kant là người con thứ tư của Johann Georg Kant (1683–1746), người chuyên nghề chế biến đai da, và bà Anna Regina (1697–1737), thuộc họ Reuter. Ông có tám anh chị em, nhưng chỉ bốn người đạt tuổi thành niên. Gia đình ông rất sùng đạo, với bà mẹ có một cái nhìn rất phóng khoáng về giáo dục. Ông nhập học tại trường trung học Friedrichskollegium năm 1732, được đào tạo tại đây và năm 1740 đã bắt đầu chương trình cao học tại Albertina, đại học tại Königsberg. Mặc dù đăng kí bộ môn Thần học nhưng Kant lại rất quan tâm đến Khoa học tự nhiên. Giáo sư bộ môn Luận lí học và Siêu hình học Martin Knutzen giúp ông làm quen với học thuyết của LeibnizNewton.

Immanuel Kant

Năm 1748 Kant tạm đình chỉ chương trình học vì tác phẩm "Tư duy về sự cảm kích chân chính các lực có sức sống" (Gedanken von der wahren Schätzung der lebendigen Kräfte) không được vị thầy sùng tín của mình là Knutzen công nhận là luận án tốt nghiệp. Ông rời Königsberg và mưu sinh bằng cách dạy học tại gia, lần đầu tiên đến năm 1750 nơi Daniel Ernst Andersch, một nhà truyền đạo (thời gian hoạt động 1728–1771) tại Judtschen, thuộc Gumbinnen, một thuộc địa Thuỵ Sĩ bao gồm những di dân nói tiếng Pháp. Ông được liệt kê trong sổ sinh tử giáo khu là một giáo phụ (Taufvater). Sau đó, đến khoảng năm 1753, ông làm thầy giáo tại gia trên trại điền của thiếu tá Bernhard Friedrich von Hülsen tại Groß-Arnsdorf thuộc thành phố Mohrungen. Chỗ làm việc thứ ba của ông nằm gần Königsberg, tại gia đình Keyserlingk ở lâu đài Waldburg-Capustigall. Gia đình này cũng giúp ông gia nhập giới quý tộc tại Königsberg.

Năm 1754, Kant trở về Königsberg và tiếp tục chương trình đại học của mình (Knutzen lúc đó đã qua đời). Chỉ một năm sau đó, 1755, ông công bố tác phẩm quan trọng đầu tiên của mình với nhan đề Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận (Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels); cũng trong năm đó, ông được bổ nhiệm phó giáo sư tại Königsberg và bắt đầu dạy nhiều bộ môn. Ông dạy các môn như Luận lí, Siêu hình, Nhân loại, Triết học đạo đức, Thần học tự nhiên, Toán, Vật lí, Lực, Địa lí, Sư phạm, và Luật tự nhiên. Các giáo trình của ông rất được hâm mộ, và Johann Gottfried Herder, người đã tham dự giáo trình trong những năm 1762–1764 thuật lại như sau: Bản mẫu:Cqupte

Lâu đài Waldburg-Capustigall

Lần nộp đơn đầu tiên xin dạy Luận lí học (Logik) và Siêu hình học (Metaphysik) vào năm 1759 của ông bị khước từ. Ông từ chối lời mời dạy Thi ca năm 1762. Và cũng như thế, ông từ khước những cơ hội nhậm chức giáo sư tại Erlangen năm 1769 và tại Jena năm 1770, trước khi nhận lời mời dạy môn Luận lí học và Siêu hình học tại đại học Königsberg chính trong năm này, đại học tâm đắc nhất của ông. Ông cũng cương quyết từ chối lời mời dạy tại đại học Halle nổi danh với lương bổng cao hơn rất nhiều vào năm 1778, mặc dù bộ trưởng Bộ văn hoá giáo dục bấy giờ là Karl Abraham Freiherr von Zedlitz khẩn khoản thỉnh cầu. Kant là hiệu trưởng đại học Königsberg năm 17861788. Năm 1787, ông được cử vào Học viện khoa học Phổ (Preußische Akademie der Wissenschaften) tại Berlin. 15 năm cuối đời của ông được đánh dấu bởi sự xung đột với Bộ kiểm tra chế độ (Zensurbehörde) với người đứng đầu là vị bộ trưởng Bộ văn hoá giáo dục mới là Johann Christoph von Wöllner – người kế thừa von Zedlitz – được vua Phổ lúc bấy giờ là Friedrich Wilhelm II bổ nhiệm. Kant tiếp tục dạy đến năm 1796, nhưng nhận chỉ thị là không nên công bố các tác phẩm tôn giáo vì chúng hàm dung tư tưởng Thần giáo tự nhiên (deistisch), phản kháng thuyết Tam vị nhất thể (Sozinianismus) và như vậy, không phù hợp với Thánh kinh. Người bạn của ông, nhà phát hành của tờ nguyệt san Berlinischen Monatsschrift tại Berlin Johann Erich Biester, kiến nghị với vua nhưng bị khước từ.

Kant trong một buổi ăn trưa cùng các bạn

Kant thường được miêu tả là một giáo sư cứng nhắc, ép mình vào một thời khoá hằng ngày, luôn tập trung vào công việc vì rất có tinh thần trách nhiệm. Nhưng bức ảnh được tô màu quá đậm. Kant là một người chơi bài khá giỏi thời sinh viên, ông thậm chí kiếm thêm tiền học bằng đánh billard. Ở những nơi thường hội họp viếng thăm, ông được xem là một người ga lăng, ăn mặc hợp thời trang và tạo ấn tượng của một người rất am tường sách vở và nhớ được vô số những mẩu truyện ngắn thú vị. Những mẩu truyện đó thường được ông kể một cách tỉnh khô, với một thái độ khôi hài thật sự trong những câu truyện được lặp lại.[2] Johann Gottfried Herder được Kant khuyên là không nên ấp ủ sách vở nhiều quá. Còn Johann Georg Hamann thì lo ngại là Kant không làm việc đủ vì "bị lôi kéo bởi một xoáy lốc phân tán giao lưu" ("einen Strudel gesellschaftlicher Zerstreuungen fortgerißen"). Chỉ khi bước vào tuổi 40 và sau khi nhận thức được là phải gìn giữ sức lực, ông mới giữ thời gian biểu đều đặn: Sáng sớm thức dậy lúc 5:00 giờ và đi ngủ lúc 22:00. Ông thường mời bạn đến ăn trưa cùng và rất thích xã giao, nhưng lại tránh những chủ đề triết học. Ngoài ra, ông đi dạo mỗi ngày vào đúng 4 giờ chiều.

Trong tác phẩm Về Lịch sử tôn giáo và Triết học tại Đức (Zur Geschichte der Religion und Philosophie in Deutschland), Heinrich Heine đã khôi hài gán cho Martin Lampe, người hầu lâu năm của Kant và cũng là một cựu chiến binh, một ảnh hưởng đến triết học của Kant :

"Ông lão Lampe phải có một Thượng đế, vì nếu không thì con người đáng thương này không thể hạnh phúc được – lí tính thực tiễn nói như vậy. Và theo tôi, lí tính thực tiễn có thể đảm bảo sự tồn tại của Thượng đế qua cách đó. Vì luận cứ này mà Kant phân biệt giữa lí tính lí thuyết và lí tính thực tiễn. Và với lí tính thực tiễn này, như thể với một cây đũa thần, ông đã hồi sinh cái xác của Thần giáo tự nhiên mà lí tính lí thuyết đã hạ sát." (Der alte Lampe muss einen Gott haben, sonst kann der arme Mensch nicht glücklich sein – das sagt die praktische Vernunft – meinetwegen – so mag auch die praktische Vernunft die Existenz Gottes verbürgen. Infolge dieses Arguments unterscheidet Kant zwischen theoretischer und praktischer Vernunft, und mit dieser, wie mit einem Zauberstäbchen, belebt er wieder den Leichnam des Deismus, den die theoretische Vernunft getötet.)

Kant sống gần như suốt đời tại Königsberg, một thành phố rộng mở. Ông qua đời năm 1804, thọ gần 80 tuổi. Mộ của ông nằm tại Đại giáo đường Königsberg. Bia tưởng niệm ông nằm phía ngoài của Đại giáo đường.

Trước tác

Trước khi trình luận án tiến sĩ năm 1755, Kant sinh kế bằng dạy học tại gia và viết những luận văn triết học tự nhiên đầu tiên, như bài "Tư duy về sự cảm kích chân chính các lực có sức sống" (Gedanken von der wahren Schätzung der lebendigen Kräfte Bản mẫu:Kant), công bố vào 1749, và Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận (Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels Immanuel Kant: AA I, 215–368[3]) năm 1755, trong đó ông trình bày một lí thuyết về sự hình thành các hệ thống hành tinh theo các định luật Newton (Kant-Laplacesche Theorie der Planetenentstehung). Cũng trong năm đó, ông trình luận án tiến sĩ về lửa (De igne (Immanuel Kant: AA I, 1–181[4])) và trình luận văn hậu tiến sĩ (Habilitationsschrift), một bài luận về những nguyên tắc đầu tiên của tri thức siêu hình (Nova dilucidatio).

Năm 1762, sau một vài tiểu luận, Kant công bố luận văn Luận cứ duy nhất khả hữu để thực chứng sự tồn tại của Thượng đế (Der einzige mögliche Beweisgrund zu einer Demonstration des Daseins Gottes) và trong đó, ông tìm cách chứng minh là tất cả những chứng minh sự tồn tại từ trước đến nay không đứng vững và phát triển một cách chứng minh sự tồn tại của Thượng đế mang tính chất bản thể học để cứu chữa những nhược điểm này.

Những năm sau đó được đánh dấu bởi một ý thức ngày càng tăng trưởng về vấn đề phương pháp của Siêu hình học truyền thống, đặc biệt được thể hiện trong tiểu luận có thể nói là giải trí nhất của Kant, Những giấc mơ của người thấy thần linh, được diễn giảng bằng những giấc mơ của siêu hình học (Träume eines Geistersehers, erläutert durch Träume der Metaphysik) năm 1766, được hiểu như một tác phẩm phê phán Emanuel Swedenborg. Trong tác phẩm "De mundi sensibilis atque intelligibilis forma et principiis" (Về mô thức và các cơ sở của thế giới cảm tính và thế giới khả niệm), xuất hiện năm 1770, Kant lần đầu tiên phân biệt khắt khe giữa tri thức các hiện tượng (Phaenomena) qua cảm năng (sinnliche Erkenntnis) và tri thức vật thể (Erkenntnis der Dinge) như chúng tự thể (an sich) là, bằng giác tính (Verstand, "Noumena"). Không gian và thời gian được ông xem là những trực quan thuần tuý (reine Anschauungen) thuộc về chủ thể (Subjekt), là tất yếu để sắp xếp các hiện tượng theo trật tự. Và như vậy, hai điểm trọng yếu của triết học phê phán sau này được chuẩn bị mặc dù phương pháp của Kant ở đây vẫn còn mang tính chất giáo điều và ông còn cho rằng, tri thức các vật tự thể bằng giác tính là một việc khả thi. Trong thập niên theo sau, Kant phát triển triết học phê phán mà không công bố của một luận văn quan trọng nào ("những năm yên lặng").

Khi Kant cho ra tác phẩm Phê phán lí tính thuần tuý (Kritik der reinen Vernunft) năm 1781 thì triết học của ông đã trải qua một biến đổi trọng đại – câu hỏi "siêu hình học như thế nào mới có thể là một khoa học" phải được giải đáp trước khi các câu hỏi siêu hình học được xử lí. Luận văn phê phán này xử lí tri thức tiên nghiệm (a priori), có nghĩa là một tri thức khả hữu đi trước tất cả những kinh nghiệm cụ thể, trong ba phần.

Trước hết là các dạng cảm năng tiên nghiệm (Sinnlichkeit a priori) - được xem ở đây là các trực quan thuần tuý (reine Anschauung) không gian và thời gian - đã đặt nền tảng cho toán học như một khoa học tiên nghiệm (apriorische Wissenschaft). Trong phần thứ hai, phần luận lí siêu nghiệm (transzendentale Logik), thì các khái niệm không tuỳ thuộc vào kinh nghiệm (erfahrungsunabhängige Begriffe), tức là các phạm trù (Kategorien), phải được áp dụng vào tất cả các đối tượng của kinh nghiệm một cách tất yếu. Qua việc áp dụng các phạm trù này thì một hệ thống xuất hiện với những nguyên tắc xác tín trên cơ sở tiên nghiệm, ví dụ như sự kết hợp nhân quả của tất cả các hiện tượng cảm năng, và qua đó, trình bày một lĩnh vực hợp lí của tri thức triết học. Các tri thức này phải là cơ sở của các ngành khoa học tự nhiên. Nhưng, với sự xác định các phạm trù này là những quy luật tất nhiên của sự kết hợp dành cho sự đồng nhất của các hiện tượng thì ta lại thấy rằng, những khái niệm này không thể được áp dụng cho các vật như chúng tự thể là (Noumena). Qua sự cố gắng (xuất hiện tất yếu trong lí tính con người) nhận thức được cái vô điều kiện (das Unbedingte) và sự cố gắng vượt qua tri thức cảm năng thì lí tính (Vernunft) sa lạc vào mâu thuẫn bởi vì không còn các tiêu chuẩn cho sự thật nào nữa ở đây. Các chứng minh siêu hình ví dụ như các chứng minh dành cho tính bất tử của linh hồn, tính vô biên của vũ trụ hoặc sự tồn tại của thượng đế là những gì không thể; những quan niệm của lí tính chỉ mang lợi ích trong vai trò khái niệm điều chỉnh và hướng dẫn tri thức kinh nghiệm.

Bị thúc đẩy bởi sự tiếp thụ chậm cũng như hiểu lầm nặng nề bản thứ nhất của Phê phán lí tính thuần tuý, Kant công bố bài Prolegomena với mục đích dẫn nhập triết học phê phán một cách dễ hiểu. Luân lí của ông, chỉ được đề cập sơ qua trong những chương cuối của Phê phán lí tính thuần tuý, được ông phát huy trong tác phẩm Đặt cơ sở cho nhân luân siêu hình học vào năm 1785 (Grundlegung zur Metaphysik der Sitten), với lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ) là nguyên lí của luân lí (Ethik), và quan niệm tự do, cái chưa được chứng minh trong phê phán thứ nhất dành cho lí tính lí thuyết, được biện hộ là điều kiện tiên quyết tất nhiên của lí tính thực tiễn.

Kant cũng quay về những vấn đề triết học tự nhiên và năm 1786, ông cho ra luận văn Những cơ sở sơ khai siêu hình của Khoa học tự nhiên (Metaphysischen Anfangsgründe der Naturwissenschaft), đặt cơ sở cho vật lí Newton bằng nguyên lí phê phán, và như qua đó, đưa ra một ví dụ cụ thể cho việc áp dụng triết học siêu nghiệm.

Sau khi chỉnh lí lại các thành phần của Phê phán lí tính thuần tuý cho lần ấn bản thứ hai vào năm 1787, ông cho ra tác phẩm Phê phán lí tính thực tiễn (Kritik der praktischen Vernunft), giải thích và phát triển phương pháp "lập cơ sở" (Grundlegung) đạo đức triết học và cuối cùng, vào năm 1793, ông công bố luận văn Phê phán năng lực phán đoán (Kritik der Urteilskraft). Trong lời nói đầu của tác phẩm, ông tuyên bố một cách hãnh diện là với luận văn này, công trình phê phán của ông đã được kết thúc và ông có thể "thẳng bước đến học thuyết" ("ungesäumt zum doktrinalen"), tức là phát triển một hệ thống Triết học siêu nghiệm (Transzendentalphilosophie).

Nhưng trước khi thực sự phát triển thì ông còn cho ra tác phẩm Tôn giáo trong phạm vi lí tính đơn thuần (Die Religion innerhalb der Grenzen der bloßen Vernunft). Trong đó, ông nghiên cứu nội dung lí tính của tôn giáo, và giải thích cách tiếp cận của một tôn giáo lí tính mang tính chất đạo đức thực tiễn (Ansatz einer moralisch-praktischen Vernunftreligion) như nó đã được học thuyết giả định trong phê phán thứ hai và thứ ba phát triển. Năm 1797, phần thứ nhất của hệ thống, luận văn Nhân luân siêu hình học (Metaphysik der Sitten), ra đời.

Nhưng công trình phát triển triết học tự nhiên của ông bị gián đoạn. Ngay trong thời gian viết Nhân luân siêu hình học, ông cũng đã khởi công soạn Chuyển biến từ những cơ sở sơ khai siêu hình đến vật lí (Übergang von den metaphysischen Anfangsgründen zur Physik) và theo đuổi nó cho đến khi qua đời năm 1804. Các bản thảo của Kant cho thấy rằng, ông vẫn còn khả năng và sẵn sàng biến chuyển triết học phê phán của mình. Xuất phát từ vấn đề biện hộ những phương châm nghiên cứu mang tính chất quy định đặc thù của Khoa học tự nhiên, Kant tự thấy phải khảo sát kĩ hơn vai trò của thân thể con người trong tri thức. Nhưng vấn đề của công trình nghiên cứu này ngày càng chuyển đến những tầng cấp trừu tượng hơn trong quá trình phác thảo nên Kant đã quay lại tầng cấp hệ thống tương ưng phê phán lí tính thuần tuý, tuy không hẳn tương ưng cách đặt vấn đề trong đó (và chúng cũng khó được nhận ra vì trạng thái của các bản viết tay). Kant phát triển một "học thuyết tự đề cử" (Selbstsetzungslehre), triển khai nó đến lí tính thực tiễn và kết thúc nó với những bản phác thảo cho một "hệ thống triết học siêu nghiệm" (System der Transzendentalphilosophie) được phác hoạch mới; nhưng ông không hoàn tất nó được nữa.

Triết học Kant

Với phong cách tiếp cận phê phán của mình (sapere aude – "hãy can đảm nhận biết"!), Kant được xem là nhà tư tưởng quan trọng nhất của thời đại Khai sáng (Zeitalter der Aufklärung). Thông thường, trong tiến trình triết học của ông, người ta phân biệt hai giai đoạn là giai đoạn tiền phê phán (vorkritische Phase) và giai đoạn phê phán (kritische Phase). Ngay trong những năm thập niên 60, người ta vẫn có thể xem ông là người chủ trương thuyết duy lí theo hệ thống của Leibniz và Wolff. Trong luận án tiến sĩ năm 1770 thì một sự gián đoạn rõ ràng đã xuất hiện. Song song với giác tính (Verstand) thì giờ đây, trực quan (Anschauung) cũng được xem là nguồn gốc của tri thức (Erkenntnisquelle). Luận án tiến sĩ cũng như lời mời dạy đại học dẫn đến "giai đoạn mặc nhiên" nổi tiếng mà trong đó, Kant triển khai Nhận thức luận (Erkenntnistheorie) của mình – được biết dưới tên Chủ nghĩa phê phán (Kritizismus) và vẫn được bàn luận đến ngày nay. Sau 11 năm cực lực ông mới công bố nó trong tác phẩm Phê phán lí tính thuần tuý, năm 1781. Sau khi đã giải minh vấn đề then chốt về những điều kiện của khả năng tri thức (Bedingungen der Möglichkeit der Erkenntnis) thì cuối cũng, với tuổi 60, ông đã hướng đến những chủ đề quan trọng hơn hết trong lĩnh vực triết học thực tiễn.

Bốn nghi vấn của Kant

Kant đề xuất bốn nghi vấn và tìm cách giải đáp chúng:

  1. "Tôi có thể biết được gì?" – Trong Nhận thức luận của ông
  2. "Tôi nên làm gì?" – Trong Luân lí học của ông
  3. "Tôi có thể hi vọng được gì?" – Trong Triết học tôn giáo của ông
  4. "Con người là gì?" – Trong Nhân loại học của ông

Nhận thức luận

"Tôi có thể biết được gì?". Là đại biểu của trường phái Duy lí của Leibniz, Kant được đánh thức khỏi "giấc ngủ giáo điều" qua việc nghiên cứu Hume. Ông thừa nhận lời chỉ trích chủ nghĩa duy lí của Hume về mặt phương pháp là đúng, có nghĩa là việc hướng dẫn nhận thức quay về giác tính thuần tuý (reiner Verstand) không có trực quan (sinnliche Anschauung) là một điều không thể đối với ông. Mặt khác, chủ nghĩa kinh nghiệm của David Hume lại dẫn đến lời xác nhận là nhận thức xác tín hoàn toàn không thể có, tức là dẫn đến chủ nghĩa hoài nghi. Kant lại không thừa nhận chủ nghĩa này, bởi vì tính hiển nhiên của một số phán đoán tiên nghiệm - đặc biệt là trong toán học (ví như xác tín tiên nghiệm [apriorische Gewissheit] của đẳng thức 7 + 5 = 12). Và như vậy, ông không những đặt câu hỏi tri thức (Erkenntnis) là gì, mà còn hỏi tiếp nữa là điều kiện tiên quyết cho một tri thức (tiên nghiệm) là gì - bởi vì tri thức tiên nghiệm là một cái gì đó khả hữu, như các kết quả toán học cho thấy. Dưới những điều kiện tiên quyết nào thì có thể đạt tri thức? Hoặc như chính Kant đã đề ra theo hệ thống: "Điều kiện cho khả năng tri thức là gì?" (Was sind die Bedingungen der Möglichkeit von Erkenntnis?)

Hình bìa của Phê phán lí tính thuần tuý, ấn bản 1781

Trong thời gian sau thì Phê phán lí tính thuần tuý (PPLTTT) với nhận thức luận của Kant là một cuộc tranh luận một mặt với triết học duy lí, mặt khác với triết học kinh nghiệm của thế kỉ 18 - hai trường phái đối đầu nhau trước mắt Kant. Nhưng đồng thời, PPLTTT cũng là một tranh luận với Siêu hình học truyền thống về mặt khái niệm và mô hình giải thích thế giới siêu việt nhận thức của con người. Luận cứ phản đối chủ nghĩa giáo điều (Dogmatismus) của những người chủ trương duy lí (ví như Christian Wolff, Alexander Gottlieb Baumgarten) là, nếu không có trực quan cảm năng (sinnliche Anschauung) thì không thể có tri thức. Luận cứ phản đối chủ nghĩa kinh nghiệm là trực quan cảm năng vẫn ở trạng thái vô cấu trúc nếu giác tính (Verstand) không thêm vào những khái niệm và kết nối nó với nhận thức (Wahrnehmung) bằng phán đoán, kết luận – nghĩa là bằng những quy luật nhất định.

Đối với Kant thì việc chưa giải thoát triết học siêu nghiệm ra khỏi tấm màn phỏng đoán (Spekulationen) là một sự nhục nhã cho triết học. Mục đích của ông là đi đến những sự trình bày có khoa học như trong toán học từ thời Thales hoặc như trong khoa học tự nhiên từ thời Galilei. Để được như vậy, Kant phải "gác tri thức qua một bên để có chỗ cho niềm tin" ("das Wissen aufheben, um zum Glauben Platz zu haben"), có nghĩa là vạch ra biên giới của tri thức để xác nhận được là trong những ý tưởng (Vorstellung hoặc Idee) nào thì không còn tri thức nào nữa vì nội dung của nó nằm ngoài tất cả những khả năng tri thức.

Đối với Kant, tri thức được thực hiện trên phương diện ngôn ngữ bằng những phán đoán (Urteil. Đó là những lời trần thuật bao gồm một chủ từ và một vị ngữ). Trong các phán đoán này, các trực quan cảm năng kinh nghiệm (empirische Anschauungen der Sinnlichkeit) được phối hợp (Synthesis) với những ý tưởng của giác tính (Vorstellungen des Verstandes). Cảm năng (Sinnlichkeit) và giác tính (Verstand) là hai nguồn tri thức duy nhất, ngang hàng và hệ thuộc lẫn nhau. "Ý niệm không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan không có khái niệm là mù quáng" (Gedanken ohne Inhalt sind leer, Anschauungen ohne Begriffe sind blind.)

Như vậy thì làm sao có được những trực quan kinh nghiệm? Kant luận bàn về điểm này trong phần nói về Cảm năng học siêu nghiệm (transzendentale Ästhetik, có thể hiểu là "Bài học về cơ sở của sự cảm nhận"). Con người một mặt có một giác quan bên ngoài, mang cho chúng ta ý tưởng về không gian. Mặt khác con người có một giác quan nội tại mà với nó, con người tạo ra ý tưởng về thời gian. Không gian và thời gian là những điều kiện tiên quyết cho tri thức. Người ta không thể suy tưởng được những đối tượng không có không gian và thời gian. Đồng thời, các giác quan của con người lại có tính chất thụ nhận (rezeptiv), có nghĩa là chúng bị một thế giới không thể nắm bắt bằng khái niệm ở bên ngoài kích động (affiziert). Thế giới không thể nắm bắt này đồng nghĩa với vật tự thể, "dem Ding an sich selbst".

Bây giờ đến cuộc cách mạng Copernicus nổi danh của Kant: Người ta không nhận thức được vật tự thể (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được sự trình hiện (Erscheinung) của nó. Sự trình hiện này được nắn thành bởi con người trong vai một chủ thể, bởi giác tính. Không phải mặt trời xoay quanh trái đất mà ngược lại, trái đất xoay quanh mặt trời. Bằng ví dụ "thấy" ta có thể theo dõi được hiện tượng này. Theo ý tưởng thông thường về thế giới bên ngoài thì có những làn sóng ánh sáng, được tiếp nhận bằng cặp mắt – cặp mắt bị kích thích. Trong bộ não, trực quan cảm năng này được biến thành cái trình hiện cho người ta thấy. Thế giới bên ngoài như vậy đã là một ý tưởng chủ quan (subjektive Vorstellung). Kant gọi những trực quan kinh nghiệm này – được phối hợp từ những thành tố đơn chiếc và được chuyển biến trong não bộ – là sự cảm nhận (Empfindung). Không gian và thời gian, trong vai trò hình thái thuần tuý của trực quan cảm năng, được bổ sung vào các cảm nhận. Chúng là những hình thái thuần tuý của trực quan con người, không có giá trị cho những đối tượng tự thể (Gegenstände an sich). Như vậy có nghĩa là, tri thức luôn luôn tuỳ thuộc vào chủ thể. Hiện thực của con người là những trình hiện, tức là tất cả những gì có trong không gian và thời gian đối với con người. Trường hợp con người không tưởng tượng được những đối tượng không có không gian và thời gian được Kant giải thích là nằm ở sự hạn chế của con người, không nằm ở các đối tượng tự chúng nó. Không gian và thời gian có trong những vật tự thể hay không là một điều con người không thể biết được.

Những cảm nhận không thôi cũng chưa dẫn đến các khái niệm (Begriff). Kant phát huy tư tưởng của mình trong phần nói về Luận lí siêu nghiệm (transzendentale Logik). Khái niệm bắt nguồn từ giác tính, được giác tính tạo một cách tự phát bằng lực tưởng tượng, theo quy luật. Nhưng để thực hiện được việc này thì phải có một nhận thức tự thể (Selbstbewusstsein) làm cơ sở của tất cả tư duy. Ý thức thuần tuý của trạng thái "tôi tư duy", được tách rời khỏi tất cả những trực quan cảm năng và được gọi là tự ý thức của tâm thức (Selbstzuschreibung des Mentalen) chính là điểm then chốt của Nhận thức luận của Kant. Nhận thức tự thể này là nguồn gốc của các khái niệm giác tính thuần tuý (Ursprung reiner Verstandesbegriffe), của các phạm trù (Kategorien).

Số lượng (Quantität), Tính chất (Qualität), Quan hệ (Relation) và Dạng thái (Modalität) là bốn công năng của giác tính mà qua đó, các phạm trù được hình thành.

Bảng liệt kê các phạm trù của Kant
Số lượng (Quantität) Tính chất (Qualität) Quan hệ (Relation) Dạng thái (Modalität)
Đơn nhất (Einheit) Thực tại (Realität) Thực thể và Ngẫu nhiên (Substanz und Akzidenz) Khả năng (Möglichkeit)
Đa số (Vielheit) Phủ định (Negation) Nhân quả (Ursache und Wirkung) Hiện thực tồn tại (Existenz)
Toàn thể (Allheit) Giới hạn (Limitation) Tương hỗ (Wechselwirkung) Tất nhiên (Notwendigkeit)

Trên cơ sở các phạm trù, giác tính phối hợp các cảm nhận theo những sơ đồ (Schema) với sự hỗ trợ của lực phán đoán (Urteilskraft, nghĩa là khả năng dung nạp theo quy luật). Một sơ đồ là phương pháp chung của lực tưởng tượng để tạo một ảnh tượng cho một khái niệm. Ví dụ như "Tôi thấy ngoài đường một cái gì đó có bốn chân. Tôi nhận ra: Đó là một con Dackel (một loại chó nhỏ). Tôi biết: Dackel là một con chó, là một động vật có vú, là một con thú, là một động vật." Như vậy thì các sơ đồ là những khái niệm phổ cập (có thể có nhiều mức độ), có chức năng kết cấu (strukturierende Allgemeinbegriffe), không thể rút được từ trực quan kinh nghiệm, mà xuất phát từ giác tính, nhưng lại tương quan với cảm năng.

Sau khi trình bày tri thức có thể được hình thành như thế nào thì câu hỏi cơ bản của Kant được đưa ra, rằng ta có thể đưa ra những câu xác định, lập cơ sở cho Siêu hình học hay không. Có thể có những lời trần thuật xuất phát từ tư duy giác tính thuần tuý làm tăng trưởng tri thức của con người? Kant đặt câu hỏi này như sau: Có thể đạt được tri thức tổng hợp tiên nghiệm? ("Sind synthetische Erkenntnisse a priori möglich?")

Kant xác nhận điều này. Người ta có thể đạt được tri thức tổng hợp tiên nghiệm. Ví dụ như trong khái niệm quan hệ (Relation) thì các phạm trù thực thể (Substanz), nhân quả (Kausalität) và tương hỗ (Wechselwirkung) được thâu tóm lại. Qua ví dụ mẫu hình của nhân quả (Kausalität) ta có thể thấy được những điểm sau: Qua cảm năng giác quan, người ta nhận thức được hai hiện tượng xảy ra trước sau, nhưng không thể nhìn ra mối tương quan nguyên nhân (Ursache) và hậu quả (Wirkung) của chúng. Như vậy, tính nhân quả được người ta suy tưởng với tính chất phổ cập (Allgemeinheit) và tất nhiên (Notwendigkeit). Người ta hiểu nhân quả là nguyên lí căn bản của tự nhiên - sự việc này cũng có giá trị trong vật lí học hiện nay, mặc dù vật lí học cơ bản chỉ xử lí những vấn đề xác suất, và năng lượng - bởi vì người ta soi rọi ý tưởng của chính họ vào tự nhiên, như tự nhiên trình hiện trước họ. Tuy nhiên, quan điểm này được Kant hạn chế rõ ràng để đối đầu những nhà duy lí. Các phạm trù không có trực quan cảm năng đi theo chỉ là những hình thái thuần tuý, và như vậy, rỗng tuếch; có nghĩa là, để đạt hiệu quả của những phạm trù thì cảm nhận kinh nghiệm (empirische Empfindung) là một điều tất yếu. Đây là giới hạn của tri thức con người.

Như vậy thì những lí thuyết siêu hình được hình thành như thế nào? Đây là một vấn đề của lí tính (Vernunft), là một thành phần của giác tính mà với nó, con người rút ra những kết luận từ những khái niệm (Begriff) và phán đoán (Urteil). Bản chất của lí tính là luôn tìm tri thức và cuối cùng, tìm cách nhận thức cái "vô điều kiện" (das Unbedingte), cái "tuyệt đối (das Absolute). Nhưng lúc này lí tính xa lìa tri thức lập cơ sở trên cảm năng và tiến đến khu vực phỏng đoán (Spekulation). Và tất nhiên là khi đó, nó cũng đề xuất ba quan niệm siêu nghiệm (transzendentale Ideen) là bất tử (Unsterblichkeit, hoặc linh hồn [Seele]), tự do (Freiheit, hoặc vũ trụ [Kosmos]) và vô tận (Unendlichkeit, hoặc Thượng Đế [Gott]). Kant cho thấy trong phương pháp biện chứng, một khoa học về thế giới hiện tượng (Wissenschaft vom Schein), rằng sự tồn tại của những nguyên lí quy định này không thể được chứng minh mà cũng chẳng thể bị phản bác. Thế thì người ta có thể tin vào Thượng đế; nhiều người đã tìm cách chứng minh sự tồn tại của Thượng đế, nhưng các chứng minh này chung quy tất nhiên phải thất bại.

Luân lí

Văn bia của Kant tại đại học Kaliningrad: "Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ tới: Bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật đạo đức ở trong tôi" (Bùi Văn Nam Sơn dịch)

"Tôi nên làm gì?" – Mục đích của các khảo sát trong PPLTTT là lập một cơ sở cho triết học thực tiễn. Và như thế, với bước đầu trong tác phẩm Đặt cơ sở cho nhân luân siêu hình học (Grundlegung zur Metaphysik der Sitten) và sau đó là trình bày nhấn mạnh hơn trong Phê phán lí tính thực tiễn (Kritik der praktischen Vernunft), Kant nghiên cứu các điều kiện khả thi của các phát biểu về những điều mà con người ta nên làm (Bedingungen der Möglichkeit von Sollensaussagen). Tôn giáo, nhận thức thông thường (common sense) hoặc kinh nghiệm không thể giải đáp được vấn đề này mà chỉ có lí tính thuần tuý mới có thể. Luận thuyết của Kant về Luân lí (Sittlichkeit) bao gồm ba phần: Cái thiện về mặt luân lí (das sittlich Gute), thừa nhận sự tự do của ý chí (Freiheit des Willens) và những phương châm khái quát của lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ).

Luân lí là điểm trọng yếu của lí tính, nó hướng đến hành động thực tiễn. Luân lí là một quan niệm có bản chất quy định vốn hiện hữu trong con người một cách tiên nghiệm (a priori). Con người là một động vật có khả năng lí giải (intelligibles Wesen). Có nghĩa là, với lí tính, con người có khả năng tư duy và phán quyết không phụ thuộc vào cảm năng và cũng không bị ảnh hưởng bởi bản năng. Tất cả những động vật được trang bị với lí tính – trong đó có loài người – không bị tha trị (heteronom), mà là tự chủ (autonom). "Ý chí là một khả năng chỉ chọn lựa cái được lí tính – không phụ thuộc vào khuynh hướng bản năng – xác nhận là thiện". Như vậy có nghĩa là sự phán quyết luân lí nằm ngay trong chủ thể. Kant cũng biết rất rõ rằng đòi hỏi luân lí là một lí tưởng mà không một ai có thể lúc nào cũng đạt được. Nhưng mặc dù vậy, Kant quan niệm là mỗi người đều mang một tiêu chuẩn luân lí trong mình và biết được rằng mình nên hành xử như thế nào để phù hợp luân lí. Ý chí độc lập (của lí tính) đòi hỏi hành động thiện về mặt luân lí. Lí tính trao cho con người trách nhiệm tuân thủ luân lí.

Lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ) của Kant cũng được phổ biến. Ghi dưới dạng quy luật thì nó cụ thể là:

  • Chỉ nên hành xử theo phương châm mà qua đó, bạn có thể muốn phương châm đó trở thành một quy luật chung (Handle nur nach derjenigen Maxime, durch die du zugleich wollen kannst, dass sie ein allgemeines Gesetz werde)

Và dưới dạng quy luật tự nhiên thì nó được viết như sau:

  • Hãy hành động như thể nhờ ý chí của bạn mà phương châm hành động của bạn trở thành một quy luật của tự nhiên. (Handle so, als ob die Maxime deiner Handlung durch deinen Willen zu einem Naturgesetz werden sollte.)

Trong lệnh thức tuyệt đối, Kant miêu tả nguyên tắc phổ cập mà con người có thể theo nó mà phán đoán giá trị đạo đức của hành động của chính mình. Để nhấn mạnh và làm sáng tỏ lệnh thức tuyệt đối, Kant diễn đạt nó dưới bốn dạng khác nhau trong cuốn Đặt cơ sở cho nhân luân siêu hình học (Grundlegung zur Metaphysik der Sitten).

Praktische Grundsätze sind Sätze, welche eine allgemeine Bestimmung des Willens enthalten, die mehrere praktische Regeln unter sich hat. Sie sind subjektiv oder Maximen, wenn die Bedingung nur als für den Willen des Subjekts gültig von ihm angesehen wird; objektiv aber, oder praktische Gesetze, wenn jene als objektiv, d.i. für den Willen jedes vernünftigen Wesens gültig erkannt wird
Nguyên tắc thực tiễn là những nguyên tắc bao gồm cách xác định ý chí một cách phổ quát, và cách xác định này cũng bao gồm nhiều quy luật thực tiễn. Chúng thuộc về phía chủ quan, hay là những phương châm, nếu điều kiện chỉ có giá trị cho ý chí của chủ thể được nó thừa nhận; nhưng lại là khách quan, hoặc là những quy luật thực tiễn, khi chúng được nhận thức là khách quan – nghĩa là có giá trị cho ý chí của mỗi người có khả năng tư duy.

Khi áp dụng thực tiễn thì phương châm được tìm thấy phải kiên định và phù hợp với ý chí thực tế. Như vậy thì luân lí của Kant là một luân lí trách nhiệm (Pflichtethik), đối nghịch với luân lí phẩm đức (Tugendethik) được Aristotle chủ trương. Kiến giải cụ thể về luân lí được Kant viết trong tác phẩm Nhân luân siêu hình học (Metaphysik der Sitten). Nó được chia thành hai phần là Luật học (Rechtslehre) và Phẩm đức học (Tugendlehre). Các phát biểu khác của Kant về triết học thực tiễn còn được tìm thấy trong các giáo trình về Nhân loại học cũng như về Sư phạm của ông.

Lịch sử, Khai sáng và Tôn giáo

"Khai sáng là gì?"

Câu hỏi thứ ba của Kant, "Ta được hi vọng những gì?", được ông giải đáp trong PPLTTT một cách tiêu cực. Sau khi lí tính không thể chứng minh được sự tồn tại hay không tồn tại của bộ ba Thượng đế, tính bất tử của linh hồn và tự do, thì bây giờ câu hỏi về cái tuyệt đối là một câu hỏi về niềm tin. "Tôi đã phải gác tri thức qua một bên để có chỗ cho niềm tin" ("Ich musste das Wissen aufheben, um zum Glauben Platz zu bekommen").

Cũng tương tự trường hợp này, trong lịch sử, người ta không thể tìm thấy một ý đồ của thượng đế. Lịch sử là một phản ánh của con người - kẻ vốn có bản chất tự do. Chính vì tự do này mà người ta không thể nhận thấy tính quy luật hoặc sự tiến triển xa hơn hướng đến hạnh phúc hoặc toàn hảo, bởi vì tiến bộ không phải là điều kiện tiên quyết tất nhiên của hành vi. Thế nhưng, vẫn có một ý đồ trong tự nhiên, có nghĩa là lịch sử được một sợi chỉ xuyên suốt (tức là có mục đích). Lí tính tự phát triển trong sự cộng tồn của loài người.

Vì sự cộng tồn, loài người đã tạo luật lệ trên cơ sở lí tính. Và luật lệ từng bước quy định trật tự xã hội. Cuối cùng, nó đã dẫn đến một hiến pháp công dân hoàn chỉnh, nó có giá trị ngay cả khi nảy sinh một tính quy tắc bề ngoài giữa các quốc gia. Từ "Lịch sử trong ý hướng công dân toàn cầu" ("Geschichte in weltbürgerlicher Absicht") này nảy sinh một trách nhiệm chính trị dành cho những nhà cầm quyền:

Daß ich mit dieser Idee einer Weltgeschichte, die gewissermaßen einen Leitfaden a priori hat, die Bearbeitung der eigentlichen bloß empirisch abgefaßten Historie verdrängen wollte: wäre Mißdeutung meiner Absicht; es ist nur ein Gedanke von dem, was ein philosophischer Kopf (der übrigens sehr geschichtskundig sein müßte) noch aus einem anderen Standpunkte versuchen könnte. Überdem muß die sonst rühmliche Umständlichkeit, mit der man jetzt die Geschichte seiner Zeit abfaßt, doch einen jeden natürlicher Weise auf die Bedenklichkeit bringen: wie es unsere späten Nachkommen anfangen werden, die Last von Geschichte, die wir ihnen nach einigen Jahrhunderten hinterlassen möchten, zu fassen. Ohne Zweifel werden sie die der ältesten Zeit, von der ihnen die Urkunden längst erloschen sein dürften, nur aus dem Gesichtspunkte dessen, was sie interessiert, nämlich desjenigen, was Völker und Regierungen in weltbürgerlicher Absicht geleistet oder geschadet haben, schätzen. Hierauf aber Rücksicht zu nehmen, imgleichen auf die Ehrbegierde der Staatsoberhäupter so wohl, als ihrer Diener, um sie auf das einzige Mittel zu richten, das ihr rühmliches Andenken auf die spätere Zeit bringen kann: das kann noch überdem einen kleinen Bewegungsgrund zum Versuche einer solchen philosophischen Geschichte abgeben.
"Cho rằng tôi muốn gạt qua một bên công trình biên tập lịch sử được ghi lại trên cơ sở kinh nghiệm đơn thuần với ý niệm của một lịch sử thế giới, xin tạm gọi là một lịch sử có một sợi dây tiên nghiệm xuyên suốt, là diễn giảng sai lạc ý của tôi; đây chỉ là mối tư duy về một sự việc mà một triết gia (thêm vào đó phải là sử gia rất giỏi) có thể thử nghiệm trên một lập trường khác. Hơn nữa, tính phức tạp trứ danh - có thể thấy được khi con người ghi chép lịch sử - bắt buộc mỗi người phải băn khoăn một cách rất tự nhiên: Hậu bối chúng ta sẽ đảm đương như thế nào gánh nặng lịch sử chúng ta muốn lưu lại cho họ sau một vài thế kỉ. Điều chắc chắn là họ chỉ quý trọng những gì của thời xa xưa mà đối với họ các di tích văn kiện đã bị huỷ hoại từ lâu, và họ chỉ quý trọng trên cơ sở những gì họ quan tâm, cụ thể là những gì các dân tộc và chính quyền đã thành đạt hoặc phá hoại trong ý hướng công dân toàn cầu. Nhưng lại lưu ý đến việc ấy, và đồng thời cũng chú tâm đến niềm hãnh diện của các nhà cầm quyền cũng như thứ dân của họ, để rồi xoay hướng nó về phương tiện duy nhất có thể giúp họ lưu danh hậu thế: Ngoài ra nó cũng có thể tạo một động cơ nhỏ để cố gắng ghi một lịch sử triết học như thế này"

Cách nhìn sự vật như thế này cũng đã quyết định thái độ của Kant đối với Khai sáng, cái được ông xem là đích đến của con người. Thời đại Khai sáng ("Zeitalter der Aufklärung") gắn liền với tên của Kant, và đây là cách định nghĩa Khai sáng rất nổi tiếng của ông:

"Aufklärung ist der Ausgang des Menschen aus seiner selbst verschuldeten Unmündigkeit. Unmündigkeit ist das Unvermögen, sich seines Verstandes ohne Anleitung eines anderen zu bedienen. Selbstverschuldet ist diese Unmündigkeit, wenn die Ursache derselben nicht am Mangel des Verstandes, sondern der Entschließung und des Mutes liegt, sich seiner ohne Leitung eines anderen zu bedienen. Sapere aude [wage es verständig zu sein]! Habe Mut, dich deines eigenen Verstandes zu bedienen! ist also der Wahlspruch der Aufklärung." (Beantwortung der Frage: Was ist Aufklärung? Berlinische Monatsschrift, 1784,2, S. 481–494).
Khai sáng là bước ra khỏi tình trạng vị thành niên tự gây ra của con người. Tình trạng vị thành niên là sự không có khả năng vận dụng giác tính mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là tự gây ra, nếu nguyên nhân của chính nó không nằm ở chỗ thiếu giác tính mà nằm ở sự thiếu cương quyết và thiếu can đảm. Sapere aude! ["hãy can đảm nhận biết"], hãy can đảm tự dùng giác tính của mình! chính là phương châm của Khai Sáng."

Kant đã lạc quan cho rằng rằng tư duy tự do – một lối tư duy phát triển mạnh mẽ dưới triều Friedrich Đại đế (1740 - 1786) (mặc dù phần lớn tương quan trực tiếp đến tôn giáo) – sẽ dần dần chuyển đổi cảm nhận của quần chúng, và thậm chí cuối cùng có thể ảnh hưởng trực tiếp đến những quy tắc của chính quyền, khiến họ "đối xử với con người, vốn có bản chất hơn một cái máy, đúng theo nhân phẩm của anh ta."

Kant là người ủng hộ mạnh mẽ cuộc Đại cách mạng Pháp và đã giữ lập trường này mặc dù có thể bị tẩy chay sau khi vua Friedrich Wilhelm II kế vị. Mặc dù chế độ kiểm duyệt ngày càng khắt khe, hay có lẽ chính vì vậy mà Kant đã công bố những luận văn tôn giáo của mình vào thời này (Religionsschriften). Không thể chứng minh có Thượng đế. Nhưng không thể có những hành vi đạo đức tiền hậu nhất trí nếu không có niềm tin vào tự do, bất tử và Thượng đế. Thế nên, đạo đức là cái nguyên thuỷ và tôn giáo giải thích các trách nhiệm đạo đức như những lời răn dạy của Thượng đế. Như vậy thì tôn giáo tuân thủ những quy luật đạo đức đã có sẵn trước đó. Ngược lại, để tìm ra được những trách nhiệm chính, con người phải trích lọc cái đúng từ những giáo lí tôn giáo khác nhau.

Kant phản đối triệt để việc tu tập tôn giáo với tất cả các nghi lễ của nó. Ông cho rằng như vậy chính là chế độ giáo hoàng. Sau khi Kant công bố luận văn tôn giáo năm 1794, chính quyền quả thật đã lệnh cấm Kant viết những bài như thế. Kant khuất phục trong thời gian vị vua này trị vì, nhưng sau khi vua qua đời, ông lại giữ lập trường này trong cuộc tranh cãi giữa các bộ môn.

Cảm năng học và mục đích của tự nhiên

Phê phán năng lực phán đoán của Kant thường được xem là tác phẩm chính thứ ba của ông. Trong luận văn được xuất bản năm 1790 này, ông tìm cách bổ sung hệ thống triết học của mình và tạo một mối quan hệ giữa lí tính lí thuyết – vốn lập cơ sở trên tri thức tự nhiên – và lí tính thực tiễn, thuần tuý dẫn đến sự chấp nhận tự do như một quan niệm và dẫn đến quy luật luân lí. Cảm giác say mê (Lust) và không say mê (Unlust) là phần tiếp nối giữa khả năng tri thức (Erkenntnisvermögen) và khả năng ham muốn (Begehrungsvermögen). Nguyên tắc tiếp nối là tính có mục đích. Tính này một mặt hiển hiện trong phán đoán cảm năng (ästhetisches Urteil) về cái đẹp và cái cao quý (phần I) và mặt khác trong phán đoán mục đích (teleologisches Urteil), một phán đoán xác định mối quan hệ giữa con người và tự nhiên (phần II). Trong cả hai trường hợp, lực phán đoán không giữ vai trò quyết định như trong lí tính lí thuyết, nơi một khái niệm nhất định nào đó được thâu tóm trong một khái niệm tổng quát, mà là phản chiếu (reflektierend), nghĩa là nơi cái tổng quát được thành lập từ cái đơn chiếc. Xác định tính cảm năng là một quá trình chủ quan mà trong đó, một đối tượng được lực phán đoán cho là đẹp hay không đẹp. Tiêu chuẩn cho những phán đoán ý vị (Geschmacksurteil) là chúng được thực hiện mà không bị ảnh hưởng bởi sở thích của người phán đoán, là chúng chủ quan, tức là không được tuỳ thuộc vào một khái niệm, là sự phán đoán đưa một giá trị chung và cuối cùng, sự phán đoán xảy ra một cách tất yếu. Như trong lĩnh vực luân lí, Kant tìm những tiêu chuẩn hình thức của một phán đoán (theo những điều kiện khả hữu) và loại việc xác nhận nội dung của cái đẹp.

Đối nghịch với cái đẹp (das Schöne), cái cao thượng (das Erhabene) không bị ràng buộc vào đối tượng cũng như hình thái của nó. Cao thượng là cái được khả năng của tâm tư chứng minh là có thể tư duy, vượt qua mọi thước đo của các giác quan ("Erhaben ist, was auch nur denken zu können ein Vermögen des Gemüths beweiset, das jeden Maßstab der Sinne übertrifft"). Cả hai, cái đẹp cũng như cái cao thượng đều làm vừa ý, nhưng cái cao thượng không gây cảm giác đam mê, mà là cảm giác ngưỡng mộ và kính trọng. Theo Kant, cái cao thượng không thể có trong nghệ thuật: nó bất quá chỉ là sự mô phỏng không đạt của cái cao thượng trong thiên nhiên. "Cái đẹp là cái làm hài lòng trong sự phán đoán đơn thuần (như vậy là không qua cảm quan theo một khái niệm của giác tính). Từ đó ta có thể suy ra một cách tự nhiên rằng, nó phải làm hài lòng không qua tất cả những gì thuộc sở thích. Cao thượng là cái làm hài lòng trực tiếp qua sự kháng cự sở thích của các giác quan ("Schön ist das, was in bloßer Beurteilung [also nicht vermittelst der Empfindung des Sinnes nach einem Begriffe des Verstandes] gefällt. Hieraus folgt von selbst, dass es ohne alles Interesse gefallen müsse. Erhaben ist das, was durch seinen Widerstand gegen das Interesse der Sinne unmittelbar gefällt.")

Trong lực phán đoán theo mục đích thì tính "có mục đích" trong tự nhiên được quán sát. Mục đích ở đây không phải là bản chất của vật thể mà được con người nghĩ ra và gán vào các đối tượng. Như sự tự do, nó là một quan niệm có tính chất quy định (regulative Idee). Mục đích tự nhiên khách quan của một đối tượng được lí tính suy nghĩ xuất phát từ mối quan hệ giữa các thành phần và tổng thể. Với một cơ chế thuần tuý, người ta không thể giải thích cấu trúc của một cây xanh và sự phối hợp của những quá trình trong tự nhiên. Đối nghịch cái đồng hồ thì một cây mang đặc điểm tự tái tạo. Người ta quan sát các mối quan hệ của những vật tự nhiên như chúng đi theo một mục đích nào. Nhưng người ta nên tránh việc giải thích tính có mục đích được cảm nhận bằng tôn giáo. "Nếu người ta vì khoa học tự nhiên đưa vào bối cảnh của nó khái niệm thượng đế để giải thích tính có mục đích của tự nhiên, và theo đó dùng tính có mục đích này để chứng minh có thượng đế thì không có nội dung nào trong cả hai ngành khoa học" ("Wenn man also für die Naturwissenschaft und in ihren Kontext den Begriff von Gott hereinbringt, um sich die Zweckmäßigkeit in der Natur erklärlich zu machen, und hernach diese Zweckmäßigkeit wiederum braucht, um zu beweisen, dass ein Gott sei: so ist in keiner von beiden Wissenschaften innerer Bestand." (Phê phán năng lực phán đoán §68))

Nhân phẩm để đạt hạnh phúc

Kant bắt đầu chủ đề hạnh phúc với một sự khảo sát tường tận chủ nghĩa hạnh phúc (Eudaimonismus). Theo Kant, khái niệm "hạnh phúc" (= eudaimonia) lập cơ sở trên những kinh nghiệm không chắc thực cũng như những quan niệm có bản chất biến đổi. Vì bản chất thiếu khách quan của chúng nên ông kết luận rằng, một cuộc sống chuyên chú đến hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi bản năng, nhu cầu, thói quen và sở thích. Và vì có nhiều quan niệm chủ quan về hạnh phúc con người nên theo ông, người ta không thể diễn sinh các quy luật khách quan từ đó ra được. Kant đặt "nhân phẩm để đạt hạnh phúc" ("Würdigkeit zum Glück") thay vào chỗ của hạnh phúc. Con người, như một "vật tự thể", chỉ có thể đạt được điều này khi ông ta thuận hành các quy luật đạo đức, nghĩa là tuân thủ lệnh thức tuyệt đối. Qua tư thái luân lí phát sinh từ đó mà con người có thể đạt được nhân phẩm để tiến đến hạnh phúc. Kant không xác định là hạnh phúc này như thế nào và con người sẽ tiếp nhận nó ở nơi nào. Theo Kant, người ta chỉ đạt được trạng thái tự mãn nguyện (Selbstzufriedenheit) trong cuộc sống thế gian và ông hiểu nó là sự hài lòng của con người với phong cách sống tự chủ, lấy nhân luân (Sitte) làm định hướng cho mình. Mặc dù Kant quan niệm là con người không thể đạt hạnh phúc cho riêng mình nhưng ông vẫn xem việc cổ động hạnh phúc của người khác là một trách nhiệm của loài người. Việc này có thể được thực hiện bằng việc giúp đỡ người khác và bằng những hành động vị tha trong mối tình bạn bè, chồng vợ và gia đình. Rất có thể là nhân phẩm để đạt hạnh phúc của Kant ở đây mang ý nghĩa là con người, qua hành động của chính mình, đã đạt nhân phẩm, xứng đáng nhận được hỗ trợ của những người khác trên con đường tiến đến hạnh phúc.

Tự do

Kant khảo sát các quan điểm của các triết gia Anh thời đại Khai sáng về tự do ý chí (Willensfreiheit). Ví dụ như Hume quả quyết rằng, con người cũng chịu ảnh hưởng của chuỗi nhân quả như thế giới tự nhiên. Giờ đây, Kant tìm cách hoá giải mâu thuẫn giữa trào lưu tư duy tương quan mật thiết với chuỗi nhân quả và tính tất yếu của tự do ý chí như một thẩm quyền đạo đức. Để thực hiện điều này, ông quan sát con người từ hai phương diện. Ở phương diện thứ nhất, ông xem con người như một "vật". Con người bị ảnh hưởng của các quy luật tự nhiên, và do đó chịu ảnh hưởng của quy luật nhân quả. Trong vai một "vật" này thì con người bị điều khiển bởi các thôi thúc nội tâm, bản năng, cảm giác và dục vọng. Nhưng theo Kant, con người như một động vật có lí tính cũng là một "vật tự thể" (Ding an sich) và như vậy, thuộc về cõi tự do (Reich der Freiheit). Qua đó, con người có thể kháng cự quy luật nhân quả và hướng đến những nguyên tắc đạo đức. Như vậy thì đối với ông, tự do không phải là tuỳ tiện (Willkür), mà là sự tự do tuân theo các quy tắc mà lí tính đã tự đề ra. Theo Kant, một ý chí tự do là một ý chí trong khuôn khổ những quy tắc luân lí. Kant cho rằng, sự tự do mà không hàm dung sự tự phục tòng này không phải là chân tự do. Do đó, những hành động ác về mặt đạo đức không dựa trên tự do ý chí, mà do quy luật nhân quả máy móc gây nên. Nhân phẩm cao quý của con người nằm ở chỗ anh ta kháng cự các bản năng và chính tự mình là nguyên nhân.

Tiếp thụ

Kant tại giảng đường

Sinh thời, Kant đã được xem là một triết gia xuất sắc, cho nên vào những năm 90 của thế kỉ 18 đã có một "chủ nghĩa Kant" (Kantianismus). Những người được xem là tiên phong quan trọng là Johann Schulz, Karl Leonhard ReinholdFriedrich Schiller. Nhưng không lâu sau cũng có những bài viết phê bình. Ví dụ như Moses Mendelssohn gọi Kant là một người "nghiền nát" tất cả, hay là August Eberhard, người đã phát hành một tờ báo để phê bình Kant, và Kant cũng đã hồi đáp một cách minh xác trong một bài viết nhan đề "Về một sự phát hiện mà theo nó, toàn bộ phê phán lí tính thuần tuý mới được một cái cũ hơn làm cho thừa" (Über eine Entdeckung, nach der alle neue Kritik der reinen Vernunft durch eine ältere entbehrlich gemacht werden soll).

Phê phán của Johann Georg Hamann và Johann Gottfried Herder lại có trọng lượng hơn. Hai người này cho rằng, Kant đã không chú ý đến việc xem ngôn ngữ như một nguồn gốc nhận thức nguyên thuỷ. Thêm vào đó, Herder còn cho thấy rằng, con người trong quá trình cảm nhận đã "sơ đồ hoá một cách siêu việt" ("metaschematisiert") và sự kiện này đã nói trước các nhận thức sau này của Tâm lí học hình thái (Gestaltpsychologie). Một phê phán quan trọng khác xuất phát từ Friedrich Heinrich Jacobi. Ông phê bình việc tách rời hai dòng nhận thức (Trennung der zwei Erkenntnisstämme) và bác bỏ "vật tự thể".

Thời kì phân tích thứ hai xuất phát từ chủ nghĩa duy tâm (Idealismus) của Đức và bắt đầu với Fichte. Ông cũng không thừa nhận trực quan là nguồn gốc nhận thức và qua đó, bước đến chủ nghĩa duy tâm chủ quan (subjektiver Idealismus). Ông bình luận phản ứng phủ nhận của Kant một cách miệt thị. Tương tự như vậy, SchellingHegel muốn vượt qua và hoàn tất Kant bằng hệ thống tuyệt đối của họ. Với cái chết của Hegel, chủ nghĩa duy tâm chấm dứt một cách đột ngột nhưng không chấm dứt về mặt được phân tích tiếp thu. Tuy nhiên, Arthur Schopenhauer, Max StirnerFriedrich Nietzsche là những ứng đáp dành cho Hegel – họ phản đối chủ nghĩa tuyệt đối của ông ta – nhưng cũng dành cho Kant, bởi vì họ tìm một con đường vượt khỏi nhận thức phũ phàng của tính chất hạn lượng của con người mà không nương tựa vào một Thượng Đế khả đắc, thậm chí cũng chẳng có xác tín của tự do.

Một con đường khác được Jakob Friedrich Fries, Johann Friedrich HerbartHermann von Helmholtz khai mở. Họ tiếp thụ Kant qua khía cạnh khoa học, đặc biệt là tâm lí học. Với Otto Liebmann, Tân chủ nghĩa Kant bắt đầu gây ảnh hưởng trong phần thứ hai của thế kỉ 19 và dẫn khởi một sự tranh luận kéo dài đến khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Các đại biểu chính của trường phái Marburg là Hermann CohenPaul Natorp với một phương pháp tiếp cận nặng tính khoa học cũng như Heinrich RickertWilhelm Windelband trong trường phái Baden (Badischen Schule) với trọng tâm triết học giá trị (wertphilosophisch) và lịch sử. Điểm chung của tất cả các đại biểu này là sự phê phán cái "tiên nghiệm" (a priori), cái được họ hiểu là nhân tố siêu hình nơi Kant. Lập trường của họ có nhiều điểm giống chủ nghĩa duy tâm. Nhưng sự việc hoàn toàn khác với chủ nghĩa phê phán (Kritizismus) của Alois Riehl và môn đệ là Richard Hönigswald, người đã đi sát học thuyết của Kant và chỉ tiếp nối tư tưởng này bằng cách quan tâm đến những nhận thức của khoa học hiện đại. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư biện của Kant đã được giai cấp tư sản dùng để đối phó với giai cấp vô sản. [1]

Hans Vaihinger chọn một đường riêng với triết học "dường như" (Als Ob) của mình, cũng như những đại biểu trường phái Marburg trước đây là Nicolai Hartmann với bản thể học theo duy lí phê phán, Ernst Cassirer với triết học hình tượng biểu trưng và cũng chính Cassirer cho thấy rằng, những lí thuyết toán họckhoa học tự nhiên hiện đại như Thuyết tương đối có thể được dung hoà với chủ nghĩa phê phán.

Không còn trường phái Kant nào tồn tại trong thế kỉ 20. Tuy vậy, gần như triết học nào cũng là một cách phân tích hoặc một cuộc đối thoại với Kant, bắt đầu từ Charles S. Peirce qua Georg Simmel, Edmund Husserl, Karl Jaspers, Max Scheler, Martin Heidegger, Ernst Bloch cho đến Theodor AdornoKarl Popper, cũng như trong triết học phân tích đến Quine với những bài Kant LecturesPeter Frederick Strawson với một bài luận giải nổi tiếng về Phê phán lí tính thuần tuý. Chủ nghĩa cấu thành của trường phái Erlangen (Erlanger Konstruktivismus) theo sát học thuyết của Kant, cũng như giữ một vai trò điểm tựa nơi Karl-Otto Apel với cách tiếp cận chuyển hoá Triết học siêu nghiệm (Transformation der Transzendentalphilosophie) và nơi Carl Friedrich von Weizsäcker. Trong thời gian 1950 đến giờ, một nhóm triết gia lại tiếp nối học thuyết của Kant về mặt duy lí phê phán (kritische Rationalität), như Helmut Holzhey, Dieter Henrich, Gerold Prauss, Norbert Hinske, Herbert Schnädelbach, Rainer Brandt hoặc Otfried Höffe. Cũng có những đại biểu tại Hoa Kì như Paul GuyerHenry E. Allison. Một điểm cần được nhấn mạnh ở đây là sự phục hưng luân lí trách nhiệm (deontologische Ethik), được hỗ trợ mạnh mẽ bởi thuyết công bằng của John Rawls. Kant cũng được phân tích nhiều trong lĩnh vực Mĩ họcTriết học tôn giáo.

Ngay trong thời nay, Kant cũng vẫn là triết gia được lí giải nhiều nhất. Điều này được thể hiện qua hơn 1000 luận văn chuyên đề và những tập tiểu luận được phát hành năm 2004, kỉ niệm 200 ngày qua đời của ông. 1100 người đã tham dự hội nghị "Kant und die Berliner Aufklärung" năm 2000 (Hội nghị quốc tế Kant lần thứ IX tại Berlin). Công trình Nghiên cứu Kant (Kant-Studien) được Hans Vaihinger thành lập năm 1896 với hơn 25 luận văn mỗi năm, sau được xem là diễn đàn của Học hội Kant (Kant-Gesellschaft) tại Halle/Saale, được thành lập năm 1904 kỉ niệm 100 năm ngày mất của ông. Có Viện nghiên cứu Kant (Kant-Forschungsstelle) tại đại học Mainz, một công trình tại Bonn nhằm công bố các tác phẩm của ông bằng những phương tiện điện toán cũng như Kho tư liệu Kant tại Marburg (Marburger Kant-Archiv). Cũng có một số triết gia Nhật theo học thuyết của Kant và họ cũng lập một Học hội Kant riêng. Tại thủ đô Tōkyō, trong đền Triết gia, người ta treo một bức tranh mang tên "Bốn người minh triết trên thế gian", trên đó thể hiện hình ảnh Phật, Khổng Phu Tử, SocratesKant.

Tác phẩm

(Lược trích)

  • 1749: Gedanken von der wahren Schätzung der lebendigen Kräfte (Tư duy về sự cảm kích chân chính các lực có sức sống)
  • 1755: Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels (Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận).
  • 1755: Meditationum quarundam de igne succincta delineatio (Luận án tiến sĩ về lửa)
  • 1755: Neue Erhellung der ersten Grundsätze metaphysischer Erkenntnisse (Luận văn hậu Tiến sĩ: Principiorum primorum cognitionis metaphysicae nova dilucidatio)
  • 1756: Metaphysicae cum geometria iunctae usus in philosophia naturalis, cuius specimen I. continet monadologiam physicam (Luận án Tiến sĩ bằng tiếng Latinh, cũng được gọi tắt là "Physische Monadologie")
  • 1762: Die falsche Spitzfindigkeit der vier syllogistischen Figuren erwiesen (Chứng minh sự tinh tế sai lầm của bốn dạng tam đoạn luận).
  • 1763: Versuch, den Begriff der negativen Größen in der Weltweisheit einzuführen.
  • 1763: Untersuchung über die Deutlichkeit der Grundsätze der natürlichen Theologie und Moral (Nghiên cứu về sự sáng sủa của các nguyên tắc của thần học tự nhiên và đạo đức).
  • 1763: Der einzig mögliche Beweisgrund zu einer Demonstration des Daseins Gottes (Cơ sở chứng minh duy nhất khả hữu về sự tồn tại của thượng đế).
  • 1764: Beobachtungen über das Gefühl des Schönen und Erhabenen (Quan sát cảm xúc cái đẹp và cái cao thượng).
  • 1766: Träume eines Geistersehers, erläutert durch Träume der Metaphysik (Những giấc mơ của người thấy thần linh, được diễn giảng bằng những giấc mơ của siêu hình học.)
  • 1770: Über die Form und die Prinzipien der sinnlichen und intelligiblen Welt (Luận án Tiến sĩ tiếng Latinh: De mundi sensibilis atque intelligibilis forma et principiis [Về mô thức và các cơ sở của thế giới cảm tính và thế giới khả niệm])
  • 1775: Über die verschiedenen Rassen der Menschen (Luận về những chủng tộc khác nhau của loài người)
  • 1781: 1. Auflage der Kritik der reinen Vernunft (Phê phán lí tính thuần tuý, ấn bản đầu tiên)
  • 1783: Prolegomena zu einer jeden künftigen Metaphysik, die als Wissenschaft wird auftreten können (Sơ luận về bất kì môn siêu hình học nào trong tương lai muốn có thể được xuất hiện như một khoa học)
  • 1784: Idee zu einer allgemeinen Geschichte in weltbürgerlicher Absicht (Ý tưởng về một lịch sử khái quát hướng theo mục đích làm công dân thế giới)
  • 1784: Beantwortung der Frage: Was ist Aufklärung (Trả lời câu hỏi: Khai sáng là gì) – Có thể xem được ở DigBib.OrgWikisource
  • 1785: Grundlegung zur Metaphysik der Sitten (Lập cơ sở cho nhân luân siêu hình học)
  • 1786: Metaphysische Anfangsgründe der Naturwissenschaft (Các cơ sở siêu hình học đầu tiên của khoa học tự nhiên)
  • 1786: Mutmaßlicher Anfang der Menschengeschichte (Phỏng đoán về lúc khởi đầu của lịch sử loài người)
  • 1787: 2., stark erweiterte Auflage der Kritik der reinen Vernunft (Phê phán lí tính thuần tuý, ấn bản thứ 2)
  • 1788: Kritik der praktischen Vernunft (Phê phán lí tính thực tiễn)
  • 1790: Kritik der Urteilskraft (Phê phán năng lực phán đoán)
  • 1793: Die Religion innerhalb der Grenzen der bloßen Vernunft (Tôn giáo trong phạm vi lí tính đơn thuần)
  • 1793: Über den Gemeinspruch: Das mag in der Theorie richtig sein, taugt aber nicht für die Praxis (Về thành ngữ: Có thể đúng về lí thuyết nhưng vô dụng về thực hành)
  • 1794: Das Ende aller Dinge (Religionsschrift)
  • 1795: Zum ewigen Frieden (Hướng đến hoà bình vĩnh cửu)
  • 1797: Die Metaphysik der Sitten (Nhân luân siêu hình học)
  • 1798: Der Streit der Fakultäten (Sự tranh cãi giữa các phân khoa)
  • 1798: Anthropologie in pragmatischer Hinsicht abgefasst (Nhân loại học dưới giác độ thực tiễn)
  • 1800: Logik – Được đệ tử của Kant là Jäsche viết theo những giáo trình.

Các tác phẩm của Kant được phát hành trong bản "Akademie Ausgabe" của Preußische Akademie der Wissenschaften, Berlin 1902ff (29 tập đến bây giờ)

Hình tượng và đài kỉ niệm

Tượng đồng của Kant tại Kaliningrad
Đọc thêm!

Trang